Giáo án dạy thêm Ngữ văn Lớp 6 (Bộ sách Kết nối tri thức và cuộc sống) - Bài 3: Yêu thương và chia sẻ
1. Kiến thức:
- Giúp HS ôn tập hệ thống hóa kiến thức của các văn bản truyện, người kể chuyện ngôi thứ ba, miêu tả nhân vật trong truyện kể. Phân tích được đặc điểm nhân vật thể hiện qua hình dáng, cử chỉ, hành động, ngôn ngữ, ý nghĩ của nhân vật.
- Ôn tập đặc điểm, chức năng của cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ, biết cách sử dụng các loại cụm từ này để tạo câu.
- Biết cách viết một bài văn kể lại một trải nghệm của bản thân, biết viết văn phải đảm bảo các bước.
- Biểt cách nói- nghe lại một trải nghiệm đối với bản thân.
2. Năng lực.
+Năng lực chung: Tự chủ và tự học; giải quyết vấn đề và sáng tạo
+Năng lực chuyên môn: Năng lực ngôn ngữ (đọc – viết – nói và nghe); năng lực văn học.
3. Phẩm chất:
- HS hiểu và trân trọng tình bạn
- Có ý thức ôn tập nghiêm túc.
BUỔI 1 Ngày soạn .................. Ngày dạy:................... BÀI 3 YÊU THƯƠNG VÀ CHIA SẺ Bài 3 -------&------- Thương người như thể thương thân. (Tục ngữ Việt Nam) A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT 1. Kiến thức: - Giúp HS ôn tập hệ thống hóa kiến thức của các văn bản truyện, người kể chuyện ngôi thứ ba, miêu tả nhân vật trong truyện kể. Phân tích được đặc điểm nhân vật thể hiện qua hình dáng, cử chỉ, hành động, ngôn ngữ, ý nghĩ của nhân vật. - Ôn tập đặc điểm, chức năng của cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ, biết cách sử dụng các loại cụm từ này để tạo câu.. - Biết cách viết một bài văn kể lại một trải nghệm của bản thân, biết viết văn phải đảm bảo các bước. - Biểt cách nói- nghe lại một trải nghiệm đối với bản thân. 2. Năng lực. +Năng lực chung: Tự chủ và tự học; giải quyết vấn đề và sáng tạo +Năng lực chuyên môn: Năng lực ngôn ngữ (đọc – viết – nói và nghe); năng lực văn học. 3. Phẩm chất: - HS hiểu và trân trọng tình bạn - Có ý thức ôn tập nghiêm túc. B. PHƯƠNG TIỆN VÀ HỌC LIỆU 1.Học liệu: - SHS, SGV Ngữ văn 6 – Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống - Nội dung công văn 5512/BGD-ĐT. - Nội dung modul 1, 2, 3 được tập huấn. - Một số tài liệu, hình ảnh trên mạng internet 2. Thiết bị và phương tiện: - Máy chiếu, ti vi kết nối in-tơ-net - Sưu tầm tranh ảnh, tư liệu có liên quan đến bài học - Sử dụng ngôn ngữ trong sáng, lành mạnh C.PHƯƠNG PHÁP, KĨ THUẬT DẠY HỌC 1. Phương pháp: Thảo luận nhóm,động não, giải quyết vấn đề, thuyết trình, . 2. Kĩ thuật: Chia nhóm, đặt câu hỏi, khăn trải bàn D.TIẾN TRÌNH DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ 1.Hoạt động : Khởi động xác định nhiệm vụ học tập a. Mục tiêu: Kết nối – tạo hứng thú cho học sinh, chuẩn bị tâm thế bước vào giờ ôn tập kiến thức. b. Nội dung hoạt động: HS hoàn thành Phiếu học tập c. Sản phẩm: Câu trả lời đúng của HS. d. Tổ chức thực hiện hoạt động: B1: Chuyển giao nhiệm vụ: GV yêu cầu HS hoàn thành Phiếu học tập 01: Viết theo trí nhớ những nội dung bài học 03: Chủ đề: Chia sẻ và yêu thương Thời gian: 03 phút. Làm việc cá nhân B 2: Thực hiện nhiệm vụ: HS làm việc cá nhân, hoàn thành phiếu học tập 01. B3: Báo cáo sản phẩm học tập: - GV gọi 1 số HS trả lời nhanh các nội dung của Phiếu học tập. - GV có thể gọi 1 số HS đọc thuộc lòng các văn bản thơ phần Đọc hiểu văn bản. B4: Đánh giá, nhận xét - GV nhận xét, khen và biểu dương các HS phát biểu , đọc bài tốt. - GV giới thiệu nội dung ôn tập: KĨ NĂNG NỘI DUNG CỤ THỂ Đọc – hiểu văn bản Văn bản 1: .. Văn bản 2: . Văn bản 3: .. Thực hành tiếng Việt: .. Viết Nói và nghe .. PHIẾU HỌC TẬP 01 KĨ NĂNG NỘI DUNG CỤ THỂ Đọc – hiểu văn bản Đọc hiểu văn bản: + Văn bản 1: Cô bé bán diêm (Han Cri-xti-an An-đéc-xen) + Văn bản 2: Gió lạnh đầu mùa (Thạch Lam) + Văn bản 3: Con chào mào (Mai Văn Phấn) Thực hành Tiếng Việt: Cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ. Viết Viết: Kể lại một trải nghiệm của em để chia sẻ một kinh nghiệm cuộc sống (hình thức một bài văn). Nói và nghe Nói và nghe: Kể lại một trải nghiệm của em (hình thức một bài nói ). Hoạt động ôn tập: Ôn tập kiến thức cơ bản a. Mục tiêu: Giúp HS ôn tập, nắm chắc các đơn vị kiến thức của bài học 3. b. Nội dung hoạt động: Vận dụng các phương pháp đàm thoại gợi mở, hoạt động nhóm để ôn tập. c. Sản phẩm: Câu trả lời cá nhân hoặc sản phẩm nhóm. d. Tổ chức thực hiện hoạt động. B1: Chuyển giao nhiệm vụ: - GV hướng dẫn HS ôn lại các đơn vị kiến thức cơ bản bằng phương pháp hỏi đáp, đàm thoại gợi mở; hoạt động nhóm, - HS lần lượt trả lời nhanh các câu hỏi củaGV các đơn vị kiến thức cơ bản của bài học 2 B2: Thực hiện nhiệm vụ - HS tích cực trả lời. - GV khích lệ, động viên B3: Báo cáo sản phẩm - HS lần lượt trả lời các câu hỏi của GV. - Các HS khác nhận xét, bổ sung. B4: Đánh giá, nhận xét GV nhận xét, chốt kiến thức ÔN TẬP VĂN BẢN CÔ BÉ BÁN DIÊM (Han Cri-xti-an An-đéc-xen) I. Tác giả - Tên: Han Cri-xti-an An-đéc-xen - Sinh năm 1805, mất năm 1875 - Ông là nhà văn người Đan Mạch,chuyên viết truyện cổ tích cho thiếu nhi - Tác phẩm: Sự hấp dẫn của Andersen lại nằm ở thể loại truyện cổ tích. Năm 1835, ông bắt đầu sáng tác truyện kể nhan đề Chuyện kể cho trẻ em . Tác phẩm cổ tích nổi tiếng nhất của ông như "Nàng tiên cá", "Bộ quần áo mới của hoàng đế", "Chú vịt con xấu xí"... Phong cách sáng tác: giản dị đan xen giữa mộng tưởng và hiện thực - Truyện Cô bé bán diêm là một trong nhưng câu chuyện hay nhất của ông. II. Tác phẩm 1. Thể loại : Chuyện cổ do An- đéc- xen sưu tầm và sáng tạo. - Kiểu văn bản: Tự sự - Ngôi kể: thứ ba 2. Đọc- kể tóm tắt Trong đêm giao thừa, trời rét mướt, có một cô bé đầu trần, chân đi đất, bụng đói đang rầu rĩ đi bán diêm trong bóng tối. Cô bé bán diêm ấy đã mồ côi mẹ và cũng đã mất đi người thương yêu em nhất là bà nội. Em không dám về nhà vì sợ bố sẽ đánh em. Vừa lạnh vừa đói, cô bé ngồi nép vào một góc tường rồi khẽ quẹt một que diêm để sưởi ấm. Que diêm thứ nhất cho em có cảm giác ấm áp như ngồi bên lò sưởi. Em vội quẹt que diêm thứ hai, em được thấy một bàn ăn thịnh soạn hiện lên. Rồi em quẹt que diêm thứ ba và được thấy cây thông Nô-en. Quẹt que diêm thứ tư: bà nội hiền từ của em hiện lên đẹp đẽ, gần gũi và phúc hậu biết mấy. Nhưng ảo ảnh đó nhanh chóng tan đi sau sự vụt tắt của que diêm. Em vội vàng quẹt hết cả bao diêm để mong níu bà nội lại. Cô bé bán diêm đã chết trong giá rét khi mơ cùng bà bay lên cao mãi. 3. Bố cục: 3 phần + Phần 1: Từ đầu đến:“Lúc này đôi bàn tay em đã cứng đờ ra” Hoàn cảnh của cô bé bán diêm. + Phần 2: Tiếp theo đến “Họ đã về chầu Thượng đế” Những giấc mộng tưởng của cô bé bán diêm sau mỗi lần quẹt diêm. + Phần 3: (Còn lại) Cái chết của cô bé bán diêm. 4. Đặc sắc nghệ thuật - Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, đan xen giữa yếu tố thật và huyền ảo với các tình tiết diễn biến hợp lí - Ngôi kể thứ ba, ngôn ngữ kể linh hoạt, kết hợp tự sự, miêu tả và biểu cảm. - Kết cấu truyện theo lối tương phản, đối lập 5. Nội dung ý nghĩa: - Truyện kể về hình ảnh một cô bé bán diêm nghèo khổ, cô đơn, bất hạnh trong đêm giao thừa. - Qua đó tác giả muốn gửi gắm một thông điệp giàu tính nhân đạo: hãy yêu thương và để trẻ thơ được sống hạnh phúc. III. ĐỊNH HƯỚNG PHÂN TÍCH VĂN BẢN 1. Dàn ý 1.1. Nêu vấn đề: giới thiệu tác giả, văn bản, và vấn đề bàn luận của văn bản. 1.2. Giải quyết vấn đề: B1: Khái quát về văn bản: chủ đề, thể thơ, bố cục văn bản, chủ đề, B2: Phân tích nội dung – nghệ thuật của văn bản theo luận điểm: a. Hoàn cảnh của cô bé bán diêm a1. Trong đêm giao thừa *Tình cảnh của cô bé - Đầu trần, đi chân đất, “đang dò dẫm trong bóng tối”. - Bụng đói - Phải đi bán diêm một mình ->Đói rét, lẻ loi, sợ hãi *Cảnh vật xung quanh - Đêm giao thừa, trời rét mướt, “cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn” - Trong phố sực nức mùi ngỗng quay. - Mọi người đều quây quần bên gia đình. ->No đủ, đầm ấm, sáng sủa Nghệ thuật tương phản làm nổi bật hoàn cảnh đáng thương của cô bé, gợi niềm thương cảm cho người đọc. a2. Gia cảnh *Quá khứ - Bà nội hiền hậu, hết mực yêu thương em - Sống trong ngôi nhà xinh xắn, “có dây trường xuân bao quanh” Đầm ấm, hạnh phúc *Hiện tại - Mẹ chết, bà nội cũng qua đời, sống với người bố khó tính - Sống “chui rúc trong một xó tối tăm”, “trên gác sát mái nhà” - Đi bán diêm để kiếm sống. Cuộc sống nghèo khổ, thiếu thốn cả vật chất, tinh thần, hết sức đáng thương của cô bé. b. Những giấc mộng tưởng của cô bé sau những lần quẹt diêm - Những hình ảnh sau mỗi lần quẹt diêm Lần 1: em thấy lò sưởi/ Lần 2: em thấy một bàn ăn thịnh soạn. Lần 3: trong không khí đêm giáng sinh, em thấy hình ảnh của cây thông Lần 4: chỉ có bà là người yêu thương em nhất. Lần 5: Lần cuối cùng em quẹt hết số diêm còn lại để nhìn thấy bà và thật kì lạ ước nguyện cuối cùng của em đã trở thành hiện thực Nhận xét: Theo em thứ tự hình ảnh xuất hiện mỗi lần quẹt diêm của cô bé bán diêm là phù hợp, không thể thay đổi. Vì: + Thể hiện tâm hồn ngây thơ, trong sáng của em, những ước mơ lãng mạn, diệu kỳ nhất từ đơn giản nhất cho đến ước mơ được sống trong tình yêu thương + Nổi bật hiện thực phũ phàng mà cô bé đang chịu đựng: sự đói rét, và cô đơn, thiếu thốn, nghèo khổ Em mơ thấy bà vì khi bà mất, em luôn sống trong cảnh thiếu tình yêu thương. Sau mỗi lần que diêm tắt là thực tế khắc nghiệt đổ ập vào em, khiến cho số phận của cô bé càng trở nên bất hạnh. - Tấm lòng của nhà văn: Người kể chuyện hóa thân vào cảm xúc của cô bé để kể thể hiện thái độ xót xa, cảm thương, chia sẻ cho số phận bất hạnh của cô bé. Từ đó thể hiện tình yêu thương tha thiết của nhà văn với số phận bất hạnh Chi tiết: “Thật dễ chịu, đôi bàn tay em hơ lên ngọn lửa... Chà!..biết bao!”Tác giả như hóa thân vào em bé, lời kể như lời tâm tình của em, (ngôn ngữ kể như ngôn ngữ độc thoại nội tâm). Mọi cảm giác của em bé như đang hiện hữu trong lòng tác giả cùng bạn đọc. Tấm lòng yêu thương và khao khát chở che cho số phận bất hạnh của nhà văn. c. Cái chết thương tâm của cô bé bán diêm. - Hình ảnh một em bé chết rét ở một xó tường trong không khí vui vẻ đầu năm mới. - Thái độ của mọi người: Mọi người bảo nhau: chắc nó muốn sưởi ấm" ứng xử thờ ơ, thiếu sự đồng cảm và tình yêu thương giữa con người đối với con người. - Nhận xét về cách kết thúc truyện: +Kết thúc có hậu. Lí giải về vẻ đẹp của em bé khi chết “Có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười”là một cái chết đẹp, hình hài thể xác chết mà linh hồn, khát vọng của em bé vẫn sống ( niềm cảm thương xót xa của tác giả) + Kết thúc không có hậu: Cô bé chết, cái chết khốn khổ, là một cảnh tượng thương tâm. Em đã chết vì đói, vì rét, vì thiếu tình yêu thương (nguyên nhân cái chết của cô bé) 1.3. Đánh giá khái quát a. Nghệ thuật - Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, đan xen giữa yếu tố thật và huyền ảo với các tình tiết diễn biến hợp lí - Ngôi kể thứ ba, ngôn ngữ kể linh hoạt, kết hợp tự sự, miêu tả và biểu cảm. - Kết cấu truyện theo lối tương phản, đối lập b. Nội dung - Truyện kể về hình ảnh một cô bé bán diêm nghèo khổ, cô đơn, bất hạnh trong đêm giao thừa. - Qua đó tác giả muốn gửi gắm một thông điệp giàu tính nhân đạo: hãy yêu thương và để trẻ thơ được sống hạnh phúc. 2. Định hướng phân tích An-đéc-xen (1805 - 1875) là nhà văn Đan Mạch, ông nổi tiếng thế giới với những câu chuyện viết cho trẻ em. Bạn đọc khắp năm châu đã rất quen thuộc với các tác phẩm của ông như Nàng tiên cá, Bầy chim thiên nga, Bộ quần áo mới của hoàng đế, Cô bé bán diêm,... Truyện của An-đéc-xen nhẹ nhàng, trong trẻo, toát lèn lòng thương yêu con người - nhất là những người nghèo khổ và niềm tin, khát vọng những điều tốt đẹp nhất trên thế gian này sẽ thuộc về con người. Truyện “Cô bé bán diêm” đưa người đọc chúng ta vào khung cảnh một đêm giao thừa giá rét ở đất nước Đan Mạch, Bắc Âu cách đây hơn một trăm năm, nhân vật cô bé bán diêm, nhân vật chính của tác phẩm, cô bé nghèo khổ, cô đơn, bất hạnh trong đêm giao thừa để lại bao xót xa trong lòng người đọc. Với cách kể chuyện hấp dẫn, đan xen giữa yếu tố thật và huyền ảo với các tình tiết diễn biến hợp lí, kết cấu truyện theo lối tương phản, đối lập, nhà văn kể về hình ảnh một cô bé bán diêm nghèo khổ, cô đơn, bất hạnh trong đêm giao thừa.Tác phẩm có bố cục rõ ràng gồm ba phần chính. Phần thứ nhất nói về hoàn cảnh khó khăn, cơ cực của cô bé bán diêm. Phần thứ hai kể về những lần quẹt diêm với những hình ảnh hiện lên trong trí tưởng tượng của cô bé. Phần thứ ba nói về cái chết đầy thương cảm của cô bé bán diêm trong đêm đông lạnh giá. Ngôi kể thứ ba, nhưng chủ yếu nhà văn hóa thân vào nhân vật cô bé bán diêm để kể, giọng văn trong sáng với nhiều chi tiết miêu tả tâm trạng đặc sắc. Mở đầu câu chuyện, tác giả giới thiệu một bối cảnh khắc nghiệt và khác thường. Khắc nghiệt bởi vì "trời đã tối hẳn" mà "tuyết rơi" không ngừng, và "rét dữ dội". Khác thường là vì: "Đêm nay là đêm giao thừa" nghĩa là một thời điểm đặc biệt đối với mỗi gia đình và đối với mỗi người. Khắp nơi đầy tuyết phủ, khắp nơi đầy giá lạnh. Ấy thế mà trong cái giá lạnh đó, trong cái đêm giao thừa đó "một em gái nhỏ đầu trần, chân đi đất, đang dò dẫm trong đêm tối". Em phải đi bán diêm vì "nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào" thì "em không thể nào về nhà", bởi lẽ khi đó "nhất định là cha em sẽ đánh em". Bởi vì từ khi "Thần Chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tan, và gia đình em đã phải lìa ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân bao quanh, nơi em đã sống những ngày đầm ấm, để đến chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắng nhiếc chửi rủa". Hơn nữa "ở nhà cũng rét thế thôi. Cha con em ở trên gác sát mái nhũ vã mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các kẽ hở lớn trên vách, gió vẫn thổi ríu vào trong nhà". Như vậy em bé bán diêm này là một em bé có hoàn cảnh nghèo khổ, cô đơn, lẻ loi, thiếu thốn cả vật chất và tinh thần. Hình ảnh cô bé bán diêm được miêu tả với những "bông tuyết bám đầy trên mái tóc dài xõa thành từng búp trên lưng em, em cũng không để ý" và những người qua đường cũng không ai để ý đến một đứa trẻ đang bị tuyết phủ dần dần. Giờ đây em không còn đi được nữa. "Em ngồi nép vào một góc tường giữa hai ngôi nhà, một cái xây lùi vào chút ít. Xung quanh em "cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay". Mùi ngỗng quay nhắc em "đêm nay là đêm giao thừa". Mùi ngỗng quay còn nhắc em nhớ tới thời kỳ đầm ấm của gia đình em trước đây. Còn hiện tại em đang ngập chìm trong tuyết lạnh. "Em thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em cảm thấy rét buốt hơn". "Lúc này đôi bàn tay của em bé bán diêm tội nghiệp "đã cứng đờ ra". Nghệ thuật tương phản làm nổi bật hoàn cảnh đáng thương của cô bé, gợi niềm thương cảm cho người đọc. Trong hoàn cảnh đáng thương ấy, nhà văn An- đec- xen với tấm lòng yêu thương, ông đã nhìn thấy những giấc mộng tưởng của cô bé sau những lần quẹt diêm. Em bé nghĩ tới việc đánh diêm để "hơ ngón tay". Và "em đánh liều một que". Ngọn lửa bùng lên trong đêm giao thừa giá lạnh, mang lại cho em một niềm vui. "Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt". Em bé hơ bàn tay giá lạnh trên ánh lửa nhỏ nhoi của que diêm mà tưởng tượng rằng em đang ngồi trước một cái lò sưởi nơi đó đang "tỏa ra một hơi nóng dịu dàng". Khi diêm tắt, "Em bần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em bán diêm". Thật đặng buồn biết bao vì giữa ước mơ và hiện thực là một khoảng cách xa vời. Một cái lò sưởi trong đêm đông giá rét một mái nhà ấm cũng mãi mãi là ước mơ, là khát vọng của em bé. Còn thực tại phũ phàng cái rét, cái đói cũng hiện về. Que diêm thứ hai "cháy và sáng rực lên". Que diêm cho em thấỵ: "bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều kỳ diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng, tiến về phía em bé". Thật hấp dẫn biết bao. Một bữa ăn vừa ngon vừa sang dành cho em bởi vì em đói lắm rồi, song bữa ăn đó cũng chỉ là ước mơ, mộng tưởng. Vì thế khi que diêm vừa tắt thì "thực tế đã thay cho mộng mị: chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt". Bên cạnh em giờ đây chỉ có đói và rét, và để chống lại em dùng ánh sáng và hơi ấm của que diêm. Trước mặt em cũng như sau lưng em chỉ còn lại "những bức tường dày đặc và lạnh lẽo". Em bé còn lại một mình trong cái thế giới của em, thế giới đó bị tuyết trắng và đêm đen bao phủ. Để xua đi màn đêm và giá rét, "em bé quẹt que diêm thứ ba". "Em thấy hiện ra một cây thông Nô-en", "cây này lớn và trang trí lộng lẫy" với "hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi, và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ"... Que diêm thứ ba cũng tắt, tất cả những ngọn nến mà cô bé bán diêm thấy trên cây thông Nô-en cũng "bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời". Khi đó em nghĩ tới cái chết, vì bà em, "người hiền hậu độc nhất đối với em" thường nói: "Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế". Và thế là em quẹt diêm. "Em thấy rõ ràng là bà em đang cười với em", "em reo lên" và van xin bà "cho cháu đi với", "cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân, cho cháu về với bà. Chắc người không từ chối đâu”. Em quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao để níu bà em lại, trước mắt em"Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này. Bà cụ cầm tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét đau buồn nào đe dọa họ nữa". Thứ tự hình ảnh xuất hiện mỗi lần quẹt diêm của cô bé bán diêm là phù hợp, không thể thay đổi. Những hình ảnh hiện lên sau mỗi lần cô bé quẹt diêm thể hiện tâm hồn ngây thơ, trong sáng của em, những ước mơ lãng mạn, diệu kỳ nhất từ đơn giản nhất cho đến ước mơ được sống trong tình yêu thương. Đối lập với những giấc mơ tươi đẹp là thực tại phũ phàng ập đến. Đó là những gì cô bé đang chịu đựng: sự đói rét, và cô đơn, thiếu thốn, nghèo khổ. Trong đó giấc mơ thấy bà được sống trong tình thương của bà là giấc mơ cháy bỏng nhất. Người kể chuyện hóa thân vào cảm xúc của cô bé để kể thể hiện thái độ xót xa, cảm thương, chia sẻ cho số phận bất hạnh của cô bé. Từ đó nhà văn gửi gắm tình yêu thương tha thiết với số phận bất hạnh. Chi tiết: “Thật dễ chịu, đôi bàn tay em hơ lên ngọn lửa... Chà!..biết bao!”Tác giả như hóa thân vào em bé, lời kể như lời tâm tình của em, (ngôn ngữ kể như ngôn ngữ độc thoại nội tâm). Mọi cảm giác của em bé như đang hiện hữu trong lòng tác giả cùng bạn đọc. Tấm lòng yêu thương và khao khát chở che cho số phận bất hạnh của nhà văn. Câu chuyện khép lại bằng hình ảnh ám ảnh lòng người, đó là cái chết thương tâm của cô bé bán diêm. Hình ảnh một em bé chết rét ở một xó tường trong không khí vui vẻ đầu năm mới. Cái chết mang trong nó sức mạnh tố cáo xã hội. Cho dù người ta nhìn thấy trong xó tường "một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Bên cạnh "một bao diêm đã đốt hết nhẵn" thì những người đang sống cũng không thể nào biết được "những cái kỳ diệu mà em bé đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón những niềm vui đầu năm'. Bởi vì những người đó ngoài việc sử dụng cái đói, cái rét để tạo sự ngăn cách của họ với em bé thì họ còn xây dựng những bức tường hoặc hữu hình hoặc vô hình để tạo ra sự ngăn cách mới giữa họ và em bé. Họ không có quyền được nhìn thấy, được tận hưởng những gì do mộng tưởng của em tạo ra. Bởi vì em thuộc về một thế giới khác. Cái chết của em bé còn là sự phê phán lối sống ích kỷ, co cụm, chỉ biết mình của thế giới hiện đại. Đó là sự cảm thông sâu sắc của nhà kể chuyện thiên tài Anđecxen. Có thể nói, An-đéc-xen "biết khám phá những khía cạnh thần kì, bất ngờ ngay trong những sự việc đơn giản hằng ngày, đưa chúng vào thế giới thần thoại đầy chất thơ, nhưng vẫn giải quyết chúng phù hợp với những quan niệm nhân sinh và xã hội tiến bộ của mình". Truyện Cô bé bán diêm có nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng, với các chi tiết tương phán, diễn biến hợp lí, truyền cho chúng ta lòng thương cảm đối với một em bé bất hạnh, lay động trong ta tình thương và niềm tin ở con người, nhất là những con người phải đối mặt với những khó khăn thử thách ở đời vẫn không nguôi mong muốn, khát vọng những điều tốt đẹp nhất. IV. LUYỆN TẬP ĐỌC HIỂU Dạng 1: Đọc hiểu: GV hướng dẫn HS thực hành các đề đọc hiểu về văn bản: µ ĐỀ ĐỌC HIỂU SỐ 1 Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi: biết “Chà! Giá quẹt một que diêm mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ? Giá em có thể rút một que diêm ra quẹt vào tường mà hơ ngón tay nhỉ? Cuối cùng em đánh liều một que. Diêm bén lửa thật là nhạy. Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt. Em hơ đôi tay trên que diêm sáng rực như than hồng. Chà! Ánh sáng kì dị làm sao! Em tưởng chừng như đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng. Trong lò, lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịụ dàng. (Trang 62, sách Ngữ văn 6, Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống, NXBGD.VN) Câu 1. Đoạn văn trên được trích trong tác phẩm nào, của ai? Câu 2. Xác định ngôi kể của đoạn văn. Câu 3. Tìm chi tiết miêu tả ngọn lửa diêm. Ý nghĩa hình ảnh ngọn lửa diêm trong câu chuyện? Câu 4. Em cần làm gì để giúp đỡ những người bạn học sinh nghèo trong trường mình? Gợi ý: Câu 1. Đoạn văn trên được trích trong - Tác phẩm: “Cô bé bán diêm” - Tác giả: An-đéc- xen Câu 2. Xác định ngôi kể: thứ ba Câu 3. - Chi tiết miêu tả ngọn lửa diêm “Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt”; “que diêm sáng rực như than hồng”; “Ánh sáng kì dị làm sao!” - Ý nghĩa hình ảnh ngọn lửa diêm trong câu chuyện: + Ánh sáng ấy xua tan cái lạnh lẽo, tăm tối, đem lại hơi ấm, niềm vui giản dị cho cô bé bán diêm. + Ánh sáng lửa diêm đã thắp lên những ước mơ giản dị, đẹp đẽ, mãnh liệt của tuổi thơ, giúp cô bé vươn tới những ước mơ cao đẹp. + Thể hiện tình yêu thương, đồng cảm của tác giả với số phận bất hạnh của cô bé bán diêm. Câu 4. Để giúp đỡ những người bạn học sinh nghèo trong trường mình, em sẽ làm những việc cụ thể: + Tặng các bạn những món quà cần thiết cho học tập và cuộc sống (trong điều kiện cho phép): sách vở, bút mực, cặp sách... + Giúp đỡ các bạn trong học tập, chia sẻ những khó khăn với bạn. + Kêu gọi, vận động bạn bè, người thân cùng gây quỹ giúp đỡ các bạn. µ ĐỀ ĐỌC HIỂU SỐ 2 Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi: " Thế là em quẹt tất cả que diêm còn lại trong bao . Em muốn níu bà em lại ! Diêm nối nhau chiếu sáng như giữa ban ngày . Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này . Bà cụ nắm lấy tay em rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét , đau buồn nào đe dọa họ nữa . Họ đã bay về chầu Thượng đế. (Trích Cô bé bán diêm, An- đéc-xen) Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính trong đoạn văn trên. Câu 2: Tại sao em bé lại quẹt tất cả những que diêm trong bao? Câu 3: Chi tiết “Bà cụ nắm lấy tay em rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét , đau buồn nào đe dọa họ nữa” gợi cho em những cảm xúc gì? Câu 4: Từ đoạn văn, em nhận thấy sự sẻ chia có ý nghĩa gì trong cuộc sống? Gợi ý: Câu 1: Phương thức biểu đạt chính trong đoạn văn trên: Tự sự Câu 2: Em bé lại quẹt tất cả những que diêm trong bao: Vì em muốn níu bà em lại, muốn ở bên bà, em đang khao khát tình yêu thương của bà. Câu 3: Chi tiết “Bà cụ nắm lấy tay em rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét , đau buồn nào đe dọa họ nữa” gợi cho em những cảm xúc: Em thấy xót xa, thương cho số phận bất hạnh đau khổ của cô bé bán diêm, cô bé chỉ tìm được niềm vui, hạnh phúc ở thế giới bên kia. Em đồng cảm với cô bé vì cô bé có ước mơ đẹp, đó là ước mơ được sống trong tình thương của bà, của người thân. Câu 4: Từ đoạn văn, em nhận thấy sự sẻ chia có ý nghĩa trong cuộc sống: Giúp con người có thêm nghị lực vượt qua khó khăn, giúp họ vươn lên trong cuộc sống. Đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho mọi người. Kết gắn mọi người, đem lại phép màu cho cuộc sống. .... Dạng 2: Viết đoạn văn: Viết đoạn văn (5-7 câu) với nhan đề: Gửi tác giả truyện “Cô bé bán diêm” Gửi tác giả truyện “Cô bé bán diêm”! Mỗi lần gấp trang truyện “Cô bé bán diêm” cháu thật sự bị ám ảnh bởi hình ảnh thương tâm kết thúc tác phẩm “một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười”(1). Tại sao ông lại kết thúc câu chuyện bằng một hình ảnh vừa xót xa đến vậy, hay đó chính là hiện thực phũ phàng? (2). Cháu xót xa vì cô bé chết trong đói rét, trong cô đơn, trong sự thờ ơ vô cảm của mọi người (3). Hình ảnh cô bé khi chết “Có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười” có phải cũng là một hình ảnh hư cấu không a, thưa ông! Có thể coi đây là một cái chết đẹp, hình hài thể xác chết mà linh hồn, khát vọng của em bé vẫn sống (4). Thưa ông, có phải, giấc mơ qua mỗi lần quẹt diêm đã đem lại ngọn lửa sưởi ấm trái tim cô bé nên cô mãn nguyện mỉm cười, có phải cuộc sống hiện thực quá phũ phàng nên cô bé tìm đến thế giới bên kia có bà, có tình thương không ạ? (5) Và có ai biết rằng cô bé vừa trải qua những giấc mơ tuyệt đẹp (được sưởi ấm, được ăn no, được vui đón giao thừa, và được sống trong tình thương của bà) (6). Dù câu chuyện buồn, không có phép màu của bà tiên, không có một bàn tay nhân hậu cứu vớt như bao câu chuyện cổ khác, nhưng cháu biết rằng, nhờ đọc câu chuyện mà mỗi người tự nhủ lòng, hãy yêu thương những người kém may mắn quanh mình, hãy giúp họ cùng thắp lên ngọn lửa của tình thương phải không ạ! (7) BUỔI 2 ÔN TẬP ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN GIÓ LẠNH ĐẦU MÙA (Thạch Lam) I. TÁC GIẢ Thạch Lam: Tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sinh năm 1910, mất năm 1942 - Quê gốc Hà Nội, thuở nhỏ sống ở quê ngoại Hải Dương - Ông là nhà văn thành công với thể loại truyện ngắn; phong cách viết văn bình dị, giàu cảm xúc và đậm chất thơ. - Tác phẩm tiêu biểu: Gió lạnh đầu mùa, Cô hàng xén, Nhà mẹ Lê, Quê mẹ, Hà Nội ba mươi sáu phố phường...Các tác phẩm của ông ẩn chứa niềm tin yêu, trân trọng đối với thiên nhiên và con người. II. TÁC PHẨM 1. Xuất xứ: là tác phẩm truyện ngắn được in trong tập Gió đầu mùa năm 1937 2. Kể, tóm tắt + Mùa đông giá lạnh đã đến, hai chị em Sơn được mặc quần áo đẹp đẽ và ấm áp. + Hai chị em Sơn ra xóm chợ chơi và thấy những người bạn nghèo mặc những bộ quần áo bạc màu, nhiều chỗ vá. Đặc biệt là em Hiên chỉ có mang áo rách tả tơi, co ro chịu rét. + Chị Lan hăm hở về lấy áo cho Hiên, Sơn cảm thấy trong ḷòng ấm áp, vui vui. + Chuyện cho áo đến tai người thân, lo sợ bị mẹ mắng, hai chị em đi tìm Hiên đòi áo. + Mẹ Hiên sang nhà Sơn trả lại áo bông. + Biết hoàn cảnh của gia đình Hiên, mẹ Sơn cho mẹ Hiên mượn tiền may áo mới cho con. 3. Thể loại: truyện ngắn - Phương thức biểu đạt chính: Tự sự - Ngôi kể: thứ ba - Nhan đề: gợi lên cái lạnh giá của thời tiết mùa đông, là nổi bật tình yêu thương ấm áp của tình người, đặc biệt là tình yêu thương trong sáng hồn nhiên của những đứa trẻ. 4. Bố cục: 3 phần + Phần 1: Từ đầu đến: “mẹ hơi rơm rớm nước mắt ”: Cảm xúc của Sơn về thiên nhiên, cảnh vật vào buổi sáng khi gió lạnh tràn về. + Phần 2: Tiếp theo đến “ấm áp, vui vui”: Thái độ, cảm xúc của chị em Sơn với các bạn nhỏ, và quyết định của chị em Sơn. + Phần 3 (còn lại): Hành động và cách cư xử của những người mẹ trước việc làm của các con. - Nhan đề: gợi lên cái lạnh giá của thời tiết mùa đông, là nổi bật tình yêu thương ấm áp của tình người, đặc biệt là tình yêu thương trong sáng hồn nhiên của những đứa trẻ. 5. Giá trị: a. Đặc sắc nghệ thuật - Cách kể chuyện nhẹ nhàng, tinh tế, theo dòng cảm xúc của nhân vật. - Nhân vật được xây dựng qua nhiều phương diện như hành động, lời nói nhưng chủ yếu qua từng cảm xúc, tâm trạng về chuyển biến của thiên nhiên, cảnh vật, sự việc... - Kết hợp kể và miêu tả cảnh thiên nhiên đặc sắc. - Tình huống đặc sắc, có những chi tiết truyện giàu ý nghĩa. b. Nội dung, ý nghĩa - Ca ngợi tình yêu thương chia sẻ ấm áp, trong trẻo của con người với con người, đặc biệt tình yêu thương vô tư của trẻ thơ. - Ẩn chứa niềm tin yêu, trân trọng của tác giả đối với con người. III. ĐỊNH HƯỚNG PHÂN TÍCH VĂN BẢN 1. Dàn ý: 1.1. Nêu vấn đề: giới thiệu tác giả, văn bản, và vấn đề bàn luận của văn bản. 1.2. Giải quyết vấn đề: B1: Khái quát về văn bản: chủ đề, thể loại, ngôi kể, bố cục văn bản, chủ đề, nhân vật B2: Phân tích nội dung – nghệ thuật của văn bản theo luận điểm: a. Nhân vật Sơn * Cảm xúc của Sơn vào buổi sáng chớm đông - Về bức tranh thiên nhiên và cảnh vật Trời đang ấm, chỉ qua một đêm mưa rào, bỗng gió rét thổi về. Ai cũng tưởng như đang ở giữa mùa đông rét mướt. Sơn “tung chăn tỉnh dậy”. Em nhìn ra ngoài sân, nghe “gió vi vu ”, âm thanh xào xạc của những chiếc lá khô. Những khóm lan “lá rung động và hình như sắt lại vì rét”... - Cuộc sống của gia đình Sơn: + Hành động săn sóc của mẹ + Chị Lan lấy áo cho em áo ấm; + Trang phục: áo dạ đỏ lẫn áo vệ sinh, áo vải thâm bân ngoài. Sơn cảm nhận được sự biến đổi của thiên nhiên, cảnh vật khi bước vào mùa đông. Sơn còn cảm nhận được không khí ấm áp, tình yêu thương của mẹ, của vú già - Cảm xúc của Sơn khi vú nhắc đến chuyện chiếc áo bông + Mẹ Sơn nhắc đến em Duyên, người em, đã mất nhớ em, Sơn cảm động và thương em quá. Sơn thấy mẹ rơm rớm nước mắt. Sơn là cậu bé ngoan ngoãn, sống giàu tình cảm, tinh tế biết quan sát và cảm nhận được tâm trạng cảm xúc của người thân. * Thái độ của chị em Sơn với các bạn nhỏ: - Hình ảnh những đứa trẻ xóm chợ : + Ăn mặc: không khác gì mọi ngày, những bộ quần áo nâu đã vá nhiều chỗ. + Bộ dạng: Môi chúng tím tái, da thịt thâm đi, người run lên, hàm răng va đập vào nhau. + Thái độ khi thấy chị em Sơn: vui mừng, nhưng vẫn đứng xa, không dám vồ vập. - Cái Hiên: đứa con gái bên hàng xóm, bạn chơi với Lan và Duyên “co ro đứng bên cột quán”, chỉ mặc có “manh áo rách tả tơi hở cả lưng và tay” Sự đối lập hoàn toàn giữa chị em Sơn và bọn trẻ xóm chợ: trong khi chị em Sơn sống trong gia đình sung túc, được mặc ấm, mặc đẹp thì bọn trẻ con nhà nghèo ăn mặc rách rưới, thiếu thốn đáng thương. * Thái độ, hành động của chị em Sơn - Với các bạn, Sơn và chị vẫn thân mật chơi đùa, chứ không kiêu kỳ và khinh khỉnh như các em họ của Sơn (thể hiện qua các chi tiết quan sát hình ảnh của các bạn khi trời rét, chơi đùa..) - Với Hiên, chị Lan dơ tay vẫy một con bé từ nãy vẫn đứng dựa vào cột: Sao không lại đây Hiên, lại đây chơi với tôi. + Chị Lan hỏi “sao áo Hiên rách thế, áo lành đâu sao không mặc” + Nghe cái Hiên “bịu xịu” nói với chị Lan là “hết áo rồi, chỉ còn cái áo này”, bấy giờ Sơn mới chợt nhớ ra “mẹ cái Hiên rất nghèo, chỉ có nghề mò cua bắt ốc thì lấy đâu ra tiền mà sắm áo cho con nữa”. - Cảm xúc của Sơn đã “động lòng thương” bạn và một “ý nghĩ tốt thoảng qua” Sơn đã nói thầm với chị Lan về lấy chiếc áo bông cũ của em Duyên đem cho cái Hiên mặc khi gió lạnh đầu mùa đã thổi về Sơn và chị đều là những đứa sống giàu t́nh thương, tốt bụng, trong sáng, đáng yêu, giàu lòng trắc ẩn. - Khi cùng chị Lan mang chiếc áo bông cũ cho Hiên, Sơn thấy lòng mình “ấm áp vui vui” khi đứng lặng yên chờ chị Lan chạy về lấy áo. -Ý nghĩ, hành động cho bạn áo ấm: là hành động thể hiện yêu thương vô tư, trong sáng của những đứa trẻ. c. Thái độ và hành động của chị e
Tài liệu đính kèm:
- giao_an_day_them_ngu_van_lop_6_bo_sach_ket_noi_tri_thuc_va_c.doc
- P DẠY THÊM BÀI 3 KẾT NỐI.pptx