Sáng kiến kinh nghiệm Khai thác, sử dụng kênh hình trong Sách giáo khoa môn Lịch sử lớp 8

Sáng kiến kinh nghiệm Khai thác, sử dụng kênh hình trong Sách giáo khoa môn Lịch sử lớp 8

Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, đặc trưng của bộ môn Lịch sử và yêu cầu đổi mới giáo dục cũng như thực tiễn dạy - học bộ môn, việc biên soạn Sách giáo khoa Lịch sử Trung học sơ sở nói chung, Sách giáo khoa Lịch sử lớp 8 nói riêng có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp. Sách giáo khoa Lịch sử hiện nay được biên soạn không chỉ là tài liệu giảng dạy của giáo viên mà còn là tài liệu học tập ở lớp và ở nhà của học sinh theo định hướng mới. Đó là học sinh không không phải học thuộc lòng Sách giáo khoa mà cần tìm tòi, nghiên cứu những sự kiện có trong Sách giáo khoa dưới sự tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên. Từ đó, các em tự hình thành cho mình những hiểu biết mới về lịch sử. Do đó những thông tin trong Sách giáo khoa một mặt được trình bày dưới dạng nêu vấn đề để học sinh suy nghĩ. Mặt khác, kèm theo những thông tin là các câu hỏi, bài tập, yêu cầu học sinh thực hiện các hoạt động học tập khác nhau, trong đó đặc biệt là sự giảm tải 25% số lượng kênh chữ, tăng đáng kể số lượng kênh hình. Kênh hình trong Sách giáo khoa không chỉ minh họa, làm cơ sở cho việc tạo biểu tượng lịch sử mà còn là nguồn cung cấp kiến thức cho học sinh. Bên cạnh đó, một số bài viết trong Sách giáo khoa còn có nhiều nội dung để ngỏ, chưa viết hết, yêu cầu học sinh thông qua làm việc với tranh ảnh, sơ đồ, bản đồ. sẽ tìm tòi, khám phá những kiến thức cần thiết liên quan đến nội dung bài học mà tác giả Sách giáo khoa muốn chuyển tải đến học sinh.

Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trên, giáo viên đã có nhiều cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học như : ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng đồ dùng trực quan, sử dụng phương pháp giải quyết vấn đề, thuyết trình ; tích cực hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm, hỗ trợ kiến thức cho nhau, thông qua hoạt động này những học sinh yếu kém sẽ được sự hướng dẫn của giáo viên và các học sinh khá giỏi, học sinh sẽ nắm chắc kiến thức và hiểu sâu hơn về bản chất của sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử ; trong quá trình giảng dạy, giáo viên kết hợp và khai thác triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, mô hình, ứng dụng công nghệ thông tin ; học sinh có chú ý nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi giáo viên đặt ra, một số em có chuẩn bị bài mới ở nhà, tham gia tích cực trong việc thảo luận nhóm và đã đạt hiệu quả trong quá trình lĩnh hội kiến thức.

 

docx 18 trang Hà Thu 30/05/2022 4431
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Khai thác, sử dụng kênh hình trong Sách giáo khoa môn Lịch sử lớp 8", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. TỔNG QUAN 
I. Thực trạng vấn đề của sáng kiến
	Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, đặc trưng của bộ môn Lịch sử và yêu cầu đổi mới giáo dục cũng như thực tiễn dạy - học bộ môn, việc biên soạn Sách giáo khoa Lịch sử Trung học sơ sở nói chung, Sách giáo khoa Lịch sử lớp 8 nói riêng có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp. Sách giáo khoa Lịch sử hiện nay được biên soạn không chỉ là tài liệu giảng dạy của giáo viên mà còn là tài liệu học tập ở lớp và ở nhà của học sinh theo định hướng mới. Đó là học sinh không không phải học thuộc lòng Sách giáo khoa mà cần tìm tòi, nghiên cứu những sự kiện có trong Sách giáo khoa dưới sự tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên. Từ đó, các em tự hình thành cho mình những hiểu biết mới về lịch sử. Do đó những thông tin trong Sách giáo khoa một mặt được trình bày dưới dạng nêu vấn đề để học sinh suy nghĩ. Mặt khác, kèm theo những thông tin là các câu hỏi, bài tập, yêu cầu học sinh thực hiện các hoạt động học tập khác nhau, trong đó đặc biệt là sự giảm tải 25% số lượng kênh chữ, tăng đáng kể số lượng kênh hình. Kênh hình trong Sách giáo khoa không chỉ minh họa, làm cơ sở cho việc tạo biểu tượng lịch sử mà còn là nguồn cung cấp kiến thức cho học sinh. Bên cạnh đó, một số bài viết trong Sách giáo khoa còn có nhiều nội dung để ngỏ, chưa viết hết, yêu cầu học sinh thông qua làm việc với tranh ảnh, sơ đồ, bản đồ... sẽ tìm tòi, khám phá những kiến thức cần thiết liên quan đến nội dung bài học mà tác giả Sách giáo khoa muốn chuyển tải đến học sinh.
Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trên, giáo viên đã có nhiều cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học như : ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng đồ dùng trực quan, sử dụng phương pháp giải quyết vấn đề, thuyết trình ; tích cực hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm, hỗ trợ kiến thức cho nhau, thông qua hoạt động này những học sinh yếu kém sẽ được sự hướng dẫn của giáo viên và các học sinh khá giỏi, học sinh sẽ nắm chắc kiến thức và hiểu sâu hơn về bản chất của sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử ; trong quá trình giảng dạy, giáo viên kết hợp và khai thác triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, mô hình, ứng dụng công nghệ thông tin ; học sinh có chú ý nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi giáo viên đặt ra, một số em có chuẩn bị bài mới ở nhà, tham gia tích cực trong việc thảo luận nhóm và đã đạt hiệu quả trong quá trình lĩnh hội kiến thức.
	Mặc dù việc khai thác sử dụng kênh hình trong Sách giáo khoa là biện pháp quan trọng góp phần nâng cao chất lượng dạy - học bộ môn, nhưng hiện nay vấn đề này vẫn chưa được quan tâm một cách đầy đủ, nguyên nhân của tình trạng này có nhiều, song chủ yếu là : 
	- Thứ nhất, về phía giáo viên :
	+ Phần đa giáo viên Trung học cơ sở phải dạy nhiều môn, thời gian dành để nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp còn hạn chế ;
	+ Nhiều giáo viên ngại dạy Lịch sử. Một số giáo viên không nắm chắc các nhân vật, sự kiện lịch sử ;
	+ Nhiều giáo viên mới chỉ chú ý đến kênh chữ trong Sách giáo khoa và coi đây là nguồn cung cấp kiến thức duy nhất trong dạy học Lịch sử mà chưa thấy hết vai trò quan trọng của kênh hình không chỉ là nguồn kiến thức quan trọng, cung cấp một lượng thông tin đáng kể, mà còn là phương tiện trực quan có giá trị, giúp cho bài học Lịch sử trở nên sinh động, hấp dẫn hơn gây hứng thú học tập cho học sinh ;
	+ Không ít giáo viên chưa hiểu rõ xuất xứ nội dung, ý nghĩa của kênh hình trong Sách giáo khoa. Trong các đợt bồi dưỡng, chuyên đề giáo viên hầu như chỉ được giải thích về cấu tạo chương trình, những điểm mới về nội dung Sách giáo khoa, không chú trọng bồi dưỡng về khai thác, sử dụng kênh hình trong Sách giáo khoa trong khi kênh hình trong Sách giáo khoa hiện hành tăng lên đáng kể so với trước ;
	+ Nhiều giáo viên nhận thức đầy đủ giá trị, nội dung của kênh hình nhưng lại ngại sử dụng và sợ mất thời gian hoặc nếu có sử dụng phần nhiều vẫn rập khuôn mang hình thức minh hoạ cho bài giảng ;
	+ Sĩ số lớp tương đối đông, số tiết thực dạy/tuần/lớp ít nên thời gian kèm cặp học sinh trong các tiết học chưa nhiều.
	- Thứ hai, về phía học sinh : Nhiều em có suy nghĩ không đúng về mục tiêu của môn Lịch sử, không thích học lịch sử, coi lịch sử là môn “phụ”. Phần đa bố mẹ các em là người dân tộc vùng cao có trình độ văn hoá thấp nên chưa thật sự coi trọng việc học tập của con em mình, sự hướng dẫn các em còn nhiều hạn chế cả về thời gian và phương pháp học.
II. Lý do tạo ra sáng kiến 
	Để nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học, người giáo viên phải luôn tìm tòi, nghiên cứu và sưu tầm tài liệu tham khảo, các phương tiện dạy học phù hợp, giúp học sinh có hứng thú học tập, tiết dạy không bị nhàm chán. 
	Trong dạy học Lịch sử, khai thác và sử dụng kênh hình là biện pháp quan trọng, tích cực để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, gây hứng thú học tập hơn cho học sinh, học sinh từ chỗ coi Lịch sử là môn phụ đến yêu thích bộ môn Lịch sử. Đối với giáo viên khai thác, sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa không chỉ làm cho bài giảng trở nên sinh động, hấp dẫn mà còn góp phần quan trọng trong việc tạo biểu tượng, hình thành khái niệm lịch sử cho học sinh, phát triển ở học sinh kĩ năng quan sát, trí tưởng tượng tượng, tư duy, giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đối với học sinh, thông qua lược đồ, bản đồ, tranh ảnh, sơ đồ, các em sẽ hiểu sâu sắc hơn bản chất của sự kiện lịch sử, nắm vững các quy luật phát triển của xã hội, nhớ kĩ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử ; hình ảnh được lưu giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ là hình ảnh thu nhận bằng trực quan. 
	Từ yêu cầu và thực tế trên đòi hỏi chúng ta phải đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử nhằm giúp học sinh hệ thống được kiến thức qua từng bài, từng chương qua đó học sinh sẽ nắm được nội dung kiến thức trọng tâm đã học.
 	Vậy làm thế nào để học sinh lĩnh hội được kiến thức trọng tâm của môn Lịch sử ? Có rất nhiều biện pháp như : sử dụng đồ dùng trực quan, sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở, thảo luận nhóm...
 	Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử nói chung, dạy học Lịch sử lớp 8 nói riêng, tôi xin trình bày một số vấn đề về việc : “Khai thác, sử dụng kênh hình trong Sách giáo khoa môn Lịch sử lớp 8”. Với việc nghiên cứu vấn đề này, tôi mong muốn sẽ khắc phục thực trạng những hạn chế trong việc dạy - học Lịch sử đã nêu ở trên, góp phần giúp giáo viên dạy học Lịch sử lớp 8 bớt khó khăn, đạt hiệu quả cao hơn.
B. NỘI DUNG
I. Giải pháp của sáng kiến
1. Giải pháp “Khai thác, sử dụng kênh hình trong Sách giáo khoa Lịch sử lớp 8”
	1.1. Các loại kênh hình trong Sách giáo khoa Lịch sử lớp 8 
	1.1.1. Bản đồ, lược đồ lịch sử
	- Bản đồ lịch sử nhằm xác định địa điểm của sự kiện trong thời gian và không gian. Đồng thời bản đồ lịch sử còn giúp cho học sinh suy nghĩ và giải thích các hiện tượng lịch sử về mối quan hệ nhân quả, về tính quy luật và trình tự phát triển của quá trình lịch sử, giúp các em củng cố ghi nhớ những kiến thức đã học.
	- Về hình thức : bản đồ lịch sử không cần có nhiều chi tiết về điều kiện tự nhiên mà cần có nhiều kí hiệu, biên giới, quốc gia, sự phân bố dân cư, thành phố, vùng kinh tế, địa điểm trên bản đồ phải đẹp chính xác rõ ràng.
	- Về nội dung : bản đồ chia làm 2 loại chính 
	+ Bản đồ tổng hợp : phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng nhất của một nước hay nhiều nước có liên quan ở một thời kỳ nhất định, trong những điều kịên tự nhiên nhất định. Ví dụ các bản đồ “Sự phân chia thuộc địa của các nước đế quốc cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX”, “Chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 - 1948”, “Chiến tranh thế giới thứ hai 1939 - 1945” ;
	+ Bản đồ chuyên đề : nhằm diễn tả những sự kiện riêng lẻ hay một mặt của quá trình lịch sử, như diễn biến một trận đánh, sự phát triển kinh tế của một nước trong một giai đoạn lịch sử. Ví dụ các bản đồ “Bọn phản cách mạng tấn công nước Pháp năm 1793”, “Nước Nga Xô-viết chống thù trong giặc ngoài 1918 - 1920”, “Khởi nghĩa Hương Khê”, “Khởi nghĩa Yên Thế” 
	1.1.2. Tranh, ảnh chân dung các nhân vật lịch sử 
	Tranh ảnh lịch sử lấy chủ đề về lịch sử như chân dung các nhân vật lịch sử, quang cảnh lịch nhằm tạo biểu tượng, khôi phục lại hình ảnh con người, nhân vật, biến cố, sự kiện một cách cụ thể, sinh động và khá sát thực.
	1.1.3. Sơ đồ lịch sử 
	Sơ đồ nhằm cụ thể hoá nội dung, sự kiện bằng những hình học đơn giản, diễn tả tổ chức một cơ cấu xã hội, một thể chế chính trị, mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử. Ví dụ như sơ đồ “Bộ máy công xã Pa-ri 1871”, “Sơ đồ so sánh sự phát triển của sản xuất thép giữa Anh và Liên-xô trong những năm 1929 - 1931”, “Sơ đồ tổ chức chính quyền của Pháp ở Đông Dương” 
	1.1.4. Biểu đồ lịch sử
	Là kênh hình dùng để diễn tả quá trình phát triển, sự vận động của một sự kiện lịch sử, trên cơ sở sử dụng số liệu, tài liệu thống kê trong bài học. Biểu đồ thường được biểu diễn trên trục hoành (ghi thời gian) và trục tung (ghi sự kiện).
	1.1.5. Hình vẽ lịch sử
	Hình vẽ có giá trị như một tư liệu lịch sử cung cấp hiểu biết về tư liệu lịch sử.
	1.2. Một số nguyên tắc khi khai thác kênh hình cũng như sử dụng đồ dùng trực quan Lịch sử 8
	- Căn cứ vào nội dung, yêu cầu giáo dưỡng, giáo dục của bài học để lựa chọn và khai thác ;
	- Có phương pháp thích hợp đối với việc sử dụng kênh hình (không chỉ cụ thể hoá kiến thức mà cần đi sâu phân tích bản chất của sự kiện) ;
	- Đảm bảo kết hợp lời nói với việc sử dụng kênh hình, đồng thời rèn luyện khả năng thực hành của học sinh (vẽ bản đồ, miêu tả bản đồ, miêu tả nhân vật ).
	1.3. Phương pháp hướng dẫn học sinh khai thác kênh hình trong Sách giáo khoa môn Lịch sử lớp 8
	- Thứ nhất : Trước khi hướng dẫn học sinh khai thác, tìm hiểu về kênh hình, giáo viên chuẩn bị thật kĩ. Giáo viên tìm hiểu, nắm vững nội dung của kênh hình đó bằng việc đọc sách tham khảo, báo, mạng Internet, ti vi...
	- Thứ hai : Để chuẩn bị cho một giờ học mới, giáo viên yêu cầu học sinh đọc trước bài ở nhà, tự tìm hiểu về kênh hình trong bài học đó.
	- Thứ ba : Khi giảng dạy, giáo viên yêu cầu các em học sinh quan sát kênh hình để xác định một cách khái quát nội dung kênh hình cần khai thác. Giáo viên giải thích bảng chú giải trong kênh hình, đặt câu hỏi để các em thảo luận, tự trình bày về sự kiện, hiện tượng lịch sử. Sau đó giáo viên nhận xét, bổ sung nội dung trả lời của học sinh, hoàn thiện nội dung khai thác kênh hình cung cấp cho học sinh. Đồng thời qua nghiên cứu, tìm hiểu kênh hình sẽ dễ dàng giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho học sinh.
	1.4. Cách khai thác và sử dụng kênh hình trong Sách giáo khoa môn Lịch sử lớp 8
	1.4.1. Bản đồ và lược đồ 
	- Lược đồ trong sách giáo khoa là phương tiện trực quan rất quan trọng trong dạy học lịch sử, nó không chỉ góp phần tái tạo lại cho học sinh những hình ảnh lịch sử với những nét điển hình đặc trưng nhất. 
	- Trên lược đồ các sự kiện luôn được thể hiện trong một không gian, thời điểm, địa điểm cung một số yếu tố địa lí nhất định.
	- Việc sử dụng bản đồ, lược đồ không những ghi nhớ, xác định các địa điểm lịch sử mà còn hiểu rõ nội dung của lược đồ. Hiểu lược đồ không chỉ là biết các chú dẫn, các kí hiệu mà cần thấy sau các quy ước ấy là những hiện tượng lịch sử sinh động.
	- Cách sử dụng bản đồ, lược đồ : Giới thiệu cụ thể tên bản đồ, lược đồ và giải thích rõ các kí hiệu trên đó sau đó hướng dẫn học sinh quan sát, khai thác nội dung lịch sử.
	+ Cách một : Giáo viên yêu cầu học sinh đọc sách giáo khoa, quan sát lược đồ và lên bảng trình bày ngắn gọn nội dung lịch sử có trên bản đồ, lược đồ, sau đó giáo viên tư tường thuật ngắn gọn nội dung.
	+ Cách hai : Giáo viên gợi ý cho học sinh quan sát, khai thác nội dung bằng những câu hỏi để gợi ý học sinh nắm được nội dung lịch sử cuối cùng giáo viên lược thuật ngắn gọn để học sinh hiểu nội dung lịch sử trên bản đồ, lược đồ. 
	Ví dụ 1 : Khi dạy bài 21 “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX”. 
Lược đồ khởi nghĩa Hương Khê
	- Trước hết giáo viên giới thiệu khái quát lược đồ, giải thích bảng chú giải, hướng dẫn học sinh quan sát lược đồ, kết hợp với tìm hiểu Sách giáo khoa và đặt một số câu hỏi để học sinh trả lời : Em có nhận xét gì về vị trí, địa bàn hoạt động của nghĩa quân Hương Khê ? Em hãy cho biết chiến thuật mà nghĩa quân áp dụng trong cuộc chiến chống quân Pháp ? Thời gian hoạt động của nghĩa quân kéo dài trong bao lâu ?
	- Sau khi hướng dẫn học sinh khai thác nội dung bằng việc trả lời câu hỏi. Để thấy được toàn cảnh cuộc khởi nghĩa giáo viên sử dụng lược đồ kết hợp với lời nói tường thuật ngắn gọn : Căn cứ chính ở Ngàn Trươi, Vụ Quang (Hương Khê - Hà Tĩnh). Ở đây có núi cao, rừng rậm, sông ngòi, khe suối che chở nên nghĩa quân có điều kiện thuận lợi chiến đấu ; địa bàn hoạt động của nghĩa quân rộng, cả bốn tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình ; chiến thuật của nghĩa quân là sử dụng các phương thức tác chiến linh hoạt, chủ động sáng tạo trong quá trình chuẩn bị lực lượng cũng như trong khi giao chiến với kẻ thù, nghĩa quân chủ yếu thực hiện lối đánh du kích, lấy yếu chống mạnh, làm cho quân Pháp nhiều phen khốn đốn. Thời gian hoạt động của nghĩa quân kéo dài 10 năm.
	Vì vậy học sinh tự so sánh với các cuộc khởi nghĩa khác, có thể khẳng định được cuộc khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa điển hình của phong trào Cần Vương. 
	Ví dụ 2 : Với lược đồ tổng hợp diễn biến của cuộc chiến tranh khi dạy bài 21 “Chiến tranh thế giới thứ hai 1939 - 1945”.
	- Trước hết giáo viên giới thiệu khái quát lược đồ “Chiến tranh thế giới thứ hai 1939 - 1945”, giải thích cho học sinh các kí hiệu trên lược đồ : 
	+ Lãnh thổ của Đức, I-ta-lia, Nhật Bản trước khi nổ ra chiến tranh. Những nước trung lập, nước bị phát xít chiếm đóng.
	+ Mũi tên màu xanh là hướng tiến công của trục phát xít (Đức, I-ta-lia ở châu Âu và Bắc Phi, Nhật ở châu Á - Thái Bình Dương).
	+ Mũi tên màu đỏ là hướng tiến công của quân đồng minh.
	- Giáo viên đặt một số câu hỏi để học sinh trả lời : 
	+ Tại sao Đức chọn Ba Lan làm nơi tấn công mở đầu cho cuộc chiến tranh ? (Bởi vì Ba Lan là nước có nhiều tài nguyên quan trọng phục vụ cho công nghiệp chiến tranh, có thể dùng Ba Lan làm bàn đạp để tấn công Liên Xô và nhiều nước châu Âu khác).
	+ Tại sao Đức chiếm Ba Lan (đồng minh Anh, Pháp), các nước Anh, Pháp chỉ tuyên mà không chiến với Đức ? Tại sao Đức chiếm được Ba Lan lại không tấn công Liên Xô mà lại tấn công các nước tây Âu trước sau đó mới đánh Liên Xô ? Phát xít Đức đã tấn công vào lãnh thổ Liên Xô như thế nào ? Nhân dân Liên Xô đã chiến đấu chống lại phát xít Đức ra sao ? Quá trình bành trướng của phát xít Nhật ở châu Á - Thái Bình Dương ?
	- Sau khi hướng dẫn học sinh khai thác nội dung bằng việc trả lời câu hỏi. Để thấy được toàn cảnh cuộc chiến tranh giáo viên sử dụng lược đồ kết hợp với lời nói tường thuật :
Giai đoạn một
(Từ 01/9/1939 đến đầu 1943)
Diễn biến chính
Mặt trận 
Xô - Đức
Mặt trận 
phía Tây
Mặt trận Châu Á - 
Thái Bình Dương
Mặt trận 
Bắc Phi
- 01/9/1939, Đức - Ba Lan.
- 22/6/1941, Đức - Liên Xô.
- 9/1939 đến 06/1941, Đức thôn tính hầu hết các nước ở Bắc, Tây và Nam Âu.
- 07/02/1941, Nhật tấn công hạm đội Mĩ ở Trân Châu Cảng và đánh chiếm toàn bộ các nước Đông Nam Á và một số đảo ở Thái Bình Dương.
- 9/1940, quân Ý tấn công Ai Cập, chiến sự lan rọng khắp thế giới.
Giai đoạn hai
(Từ đầu 1943 đến 8/1945)
- Liên Xô đã lập nên chiến thắng lẫy lừng Xit-ta-lin-grat (19/12 đến ngày 02/02/1943), Liên Xô, Anh, Mỹ tấn công Đức : Đông Âu được giải phóng.
- 26/4 đến ngày 09/5/1945, Liên Xô mở chiến dịch Bec-lin : 09/5/1945 Đức đầu hàng đồng minh vô điều kiện.
- 06/6/1944 Liên quân Mĩ - Anh mở mặt trận thứ hai đổ bộ vào biên giới nước Pháp.
- Ngày 6 và ngày 09/8/1945 Mĩ ném hai quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản.
- 09/8 đến 13/8/1945 Liên Xô tiêu diệt đội quân Quan Đông của Nhật Bản.
- 15/8/1945, Nhật Bản đầu hàng quân đồng minh vô điều kiện.
- 11/1942 liên quân Mĩ - Anh tấn công Bắc phi, quân Đức, Ý nhanh chóng hạ vũ khí đầu hàng, mặt trận Bắc phi kết thúc (07/1943).
	- Cuối bài giáo viên cho lớp làm việc theo 2 nhóm :
	+ Nhóm 1 : Phát xít Đức bị tiêu diệt như thế nào ? Em đánh giá như thế nào về vai trò của Liên Xô và đồng minh Mĩ - Anh trong việc tiêu diệt phát xít Đức ?
	+ Nhóm 2 : Phát xít Nhật đã bị tiêu diệt như thế nào ? Em đánh giá như thế nào về vai trò của Liên Xô và đồng minh Mĩ - Anh trong việc tiêu diệt phát xít Nhật ?
	Học sinh các nhóm trả lời, giáo viên chốt khắc sâu kiến thức cho các em.
	1.4.2. Sơ đồ 
	Sơ đồ trong Sách giáo khoa nhằm cụ thể hoá nội dung sự kiện bằng những mô hình, hình học đơn giản diễn tả tổ chức một cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị, mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử thông thường khai thác sử dụng sơ đồ dễ hơn lược đồ song cũng giống như khi khai thác sử dụng lược đồ trước hết giáo viên cần giới thiệu cho học sinh tên sơ đồ. Sau đó hướng dẫn học sinh khai thác sơ đồ bằng những câu hỏi gợi ý để học sinh tư duy và tìm hiểu nội dung. Cuối cùng giáo viên chốt lại ý cơ bản.
	Ví dụ : Khi dạy bài 29 “Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và những chuyển biển về kinh tế, xã hội ở Việt Nam”. 
	- Giáo viên có thể vẽ sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước “Liên bang Đông Dương” qua đó cho học sinh thấy được tổ chức chính quyền của pháp cũng như thủ đoạn của người Pháp.
	- Giáo viên treo lược đồ “Liên bang Đông Dương” cùng sơ đồ và giới thiệu khái quát cho học sinh.
	- Giáo viên cũng có thể đặt câu hỏi : Tại sao Pháp lại chia nước ta thành ba kì với ba chế độ cai trị khác nhau ? Em có nhận xét gì về hệ thống chính quyền của Pháp, thủ đoạn của Pháp là gì ?
Sau khi cho học sinh tìm hiểu câu hỏi giáo viên kết hợp lược đồ và sơ đồ để chốt lại kiến thức của bài học : Theo sắc lệnh ngày 17/10/1887, thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, năm đó mới bao gồm có Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì và Campuchia, trực thuộc Bộ Hải quân và Thuộc địa. Ngày 19/4/1899, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh sáp nhập thêm Lào vào Liên bang Đông Dương. Việt Nam bị chia làm ba xứ : Bắc Kỳ là xứ nửa bảo hộ, đứng đầu là Thống sứ Pháp ; Trung Kỳ với chế độ bảo hộ, đứng đầu là Khâm sứ Pháp ; Nam Kỳ theo chế độ thuộc địa, đứng đầu là Thống đốc Pháp. Mỗi xứ gồm nhiều tỉnh đứng đầu là viên quan người Pháp. Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, dưới là làng xã do quan chức địa phương cai quản. Tổ chức chính quyền chặt chẽ, với tay xuống tận nông thôn. Kết hợp giữa nhà nước thực dân và chế độ phong kiến. Chia Việt Nam thành ba quốc gia riêng biệt là Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ chia rẽ dân tộc. Tất cả đều phục vụ cho lợi ích tư bản Pháp.
	1.4.3. Hình vẽ 
	- Hình vẽ, tranh ảnh trong Sách giáo khoa là một phần của đồ dùng trực quan trong dạy học, nó có ý nghĩa hết sức to lớn không những là phương tiện trực quan hết sức có giá trị giúp bài học trở nên sinh động, hấp dẫn hơn, gây hứng thú học tập cho học sinh mà còn là nguồn cung cấp kiến thức quan trọng, có tác dụng giáo dục tư tưởng, tình cảm, tư duy cho học sinh.
	- Hiện nay học sinh rất thích xem tranh, ảnh lịch sử nhưng lại ít biết cách khai thác sử dụng tranh, ảnh để phục vụ cho bài học. Vì vậy nhiệm vụ của giáo viên là phải hướng dẫn học sinh cách khai thác, sử dụng.
	- Khi hướng dẫn học sinh khai thác, sử dụng, giáo viên cần giúp học sinh không chỉ biết miêu tả bề ngoài của tranh ảnh hình vẽ mà quan trọng hơn là phải biết khai thác nội dung lịch sử chứa đựng bên trong tranh ảnh, hình vẽ. Thường thì giáo viên giới thiệu tên tranh, ảnh, hình vẽ sau đó yêu cầu học sinh quan sát vào tranh, ảnh, hình vẽ để trả lời câu hỏi gợi ý của giáo viên.
	Ví dụ 1 : Khi sử dụng hình 5 “Tình cảnh nông dân trước cách mạng Pháp” (SGK lịch sử 8 trang 10) để dạy bài “Cách mạng tư sản Pháp 1789 - 1794”.
H.5 - Tình cảnh nông dân Pháp 
trước cách mạng.
Đối với kênh hình này khi khai thác giáo viên cần hướng dẫn học sinh quan sát và sử dụng các câu hỏi gợi mở : Nhìn vào bức tranh em có nhận xét gì ? Tại sao người nông dân già nua lại phải cõng trên lưng hai người quý tộc và Tăng lữ béo tốt ? Qua hình 5, em hãy miêu tả tình cảnh người nông dân trong xã hội Pháp thời bấy giờ ? Em thấy xã hội Pháp gồm mấy đẳng cấp ?	
Học sinh tự nhận xét và đưa ra phương án trả lời ; giáo viên kết luận : Bức tranh miêu tả người nông dân già nua ốm yếu phải cõng trên lưng hai người có thân hình béo khoẻ đó là hình ảnh tượng trưng cho hai đẳng cấp quý tộc và tăng lữ trong xã hội Pháp trước cách mạng. Người ngồi trước mặc áo choàng với nét mặt phởn chí, thoả mãn là Tăng lữ. Người ngồi sau đeo thanh gươm có đầy đủ trang sức, trang phục rất đẹp là Quý tộc. Trong túi họ gồm các loại công văn khế ước cho vay nợ, cho thuê ruộng đều là những quy định nghĩa vụ phong kiến của nông dân. Đời sống cực khổ bị Quý tộc và Tăng lữ áp bức bóc lột thông qua các loại thuế đồng thời với công cụ canh tác thô sơ và lạc hậu đó là hình ảnh mô tả nền nông nghiệp Pháp thời bấy giờ.
	Ví dụ 2 : Khi khai thác kênh hình 24 Sách giáo khoa trang 28 Lịch sử 8 (Tình cảnh lao động trẻ em trong các hầm mỏ ở Anh). 
	- Giáo viên sử dụng bức tranh này khi dạy mục I trong phần 1 : Phong trào đập phá máy móc và bãi công (Phong trào công nhân và sự ra đời của Chủ nghĩa Mác). 
	- Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát bức tranh, giáo viên sử dụng các câu hỏi gợi mở để học sinh tìm tòi khám phá : Nhìn vào bức tranh em hãy cho biết những người đang làm việc là ai ? Điều kiện làm việc như thế nào ? Xe than đầy ắp mà những em bé gầy gò đang đẩy nói lên điều gì ? 
	- Học sinh tự rút ra câu trả lời ; giáo viên nhận xét, phân tích nội dung bức tranh cần phản ánh : Cùng với sự phát triển của nền kinh tế công nghiệp hiện đại, giai cấp công nhân cũng dần dần hình thành ở các nước tư bản, các trung tâm công nghiệp, thương nghiệp sầm uất mọc lên tấp nập và những phương tiện hiện đại. Nhưng đằng sau bộ mặt lộng lẫy và xa hoa của giai cấp tư sản là hình ảnh đói rét cực khổ của những người lao động làm thuê, giai cấp công nhân. Kể cả nam nữ, trẻ em đều phải lao động trong điều kiện khắc nghiệt ngột ngạt và ô nhiễm. Trẻ em công nhân gầy còm xanh xao, mắc nhiều bệnh hiểm nghèo, thân thể phát triển không bình thường, tuổi thọ thấp.
	Ví dụ 3 : Tìm hiểu mục I “Trung Quốc bị các nước đế quốc chia xẻ”, ở bài 10 “Trung Quốc cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX” khi khai thác hình 42 - Các nước đế quốc xâu xé “cái bánh ngọt” Trung Quốc (Sách giáo khoa Lịch sử 8 - trang 59) kết hợp với sử dụng lược đồ “Các nước đế quốc xâu xé Trung Quốc - từ giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX”.
	- Trước hết giáo viên cho học sinh quan sát tranh biếm hoạ, giới thiệu vài nét về nội dung thể hiện qua bức tranh như : cái bánh ngọt mang tên “Chi na” được chia thành nhiều miếng là hình ảnh tượng trưng cho tình cảnh của đất nước Trung Quốc cuối thế kỉ XIX. Chân dung các nhân vật xung quanh chiếc bánh là hình ảnh của các vị nguyên thủ đương thời của các quốc gia : Đức, Pháp, Mĩ, Nga, Nhật, Anh. Giáo viên khai thác nội dung tranh bằng câu hỏi gợi ý để học sinh trả lời : Theo em tác giả bức tranh muốn nói lên điều gì ? Qua bức tranh em rút ra được điều gì về lịch sử Trung quốc cuối thế kỉ XIX ?
H42. Các nước đế quốc xâu xé “ cái bánh ngọt” Trung Quốc.
	- Sau khi học sinh trả kời và nêu nhận xét, giáo viên tóm tắt nội dung bức tranh kết hợp với lược đồ để kết luận : Cuối thế kỉ XIX các nước tư bản phương Tây tăng cường xâm chiếm thuộc địa để thoả mãn nhu cầu về thị trương, tài nguyên và nhân công phục vụ nền kinh tế chính quốc. Trung quốc với diện tích rộng, dân số đông, điều kiện tự nhiên thuận lợi đã trở thành “cái bánh ngọt” mà các nước đế quốc đều thèm muốn. Trong tác phẩm “ Các nước đế quốc chủ nghĩa và Trung Quốc” Hồ Chí Minh đã chỉ rõ : Vào cuối thế kỉ XIX mặc dù Trung Quốc rất suy nhược, nội bộ chia rẽ, nhưng dù sao con số 11.139.000 km2 của nó vẫn là miếng mồi quá to mà chủ nghĩa đế quốc thực dân không thể nuốt trôi ngay được và không thể một ngày mà đẩy 489.5 triệu người Trung quốc vào chế độ nô lệ thuộc địa. Cho nên các nước đế quốc đã cắt vụn Trung Quốc ra thành nhiều mảnh để chia nhau chiếm giữ.
	Quá trình các nước đế quốc xâu xé Trung Quốc bắt đầu từ cuộc chiến tranh thuốc phiện của thực dân Anh năn 1840 - 1842. Sau chiến tranh thuốc phiện các nước đế quốc từng bước nhảy vào xâu xé Trung Quốc. Đến cuối thế kỉ XIX, Đức chiếm tỉnh Sơn Đông, Anh chiếm vùng châu thổ sông Dương Tử, Pháp thôn tính vùng Vân Nam, Nga, Nhật chiếm vùng Đông Bắc. Hình ảnh sáu vị nguyên thủ quốc gia ngồi xung quanh cái bánh từ trái sang phải là Hoàng đế Đức, Tổng thống Pháp, Nga hoàng, Nhật hoàng, Tổng thống Mĩ, Thủ tướng Anh.
	Sử dụng tranh ảnh kết hợp với lược đồ vừa khai thác được nội dung lịch sử, vừa phát huy năng lực tư duy, kích thích trí tưởng tượng phong phú, tạo hứng thú học tập cho học sinh.
	1.4.4. Tranh ảnh chân dung nhân vật lịch sử
	Chân dung các nhân vật lịch sử có ý nghĩa rất lớn trong việc giảng dạy và học tập lịch sử ở trường THCS, chân dung các nhân vật lịch sử trong sách giáo khoa thường có hai loại : chân dung các nhân vật chính diện và chân dung các nhân vật phản diện.
 	Khi sử dụng chân dung nhân vật lịch sử giáo viên không nên chú ý đến việc miêu tả bề ngoài của các nhân vật mà cần chú ý phân tích nội tâm, tài đức, quan điểm thể hiện ở hành động của nhân vật.
	Khi khai thác chân dung các nhân vật chính diện như các anh hùng dân tộc, lãnh tụ cách mạng, nhà phát minh khoa học... giáo viên phải làm nổi bật tính cách thông qua việc miêu tả bề ngoài, hay nêu khái quát ngắn gọn tiểu sử nhân vật, đặc biệt là những câu chuyện thời thơ ấu của nhân vật, dễ làm học sinh hứng thú, kích thích óc tò mò. Phát triển năng lực nhận thức. Qua việc sử dụng chân dung các nhân vật chính diện giáo viên cần giáo dục ở học sinh lòng biết ơn, sự khâm phục tài chí, đạo đức của nhân vật từ đó có ý thức rèn luyện mình theo gương đó.
	Đối với chân dung nhân vật phản diện, khi khai thác, sử dụng vào bài học giáo viên cần hướng dẫn học sinh nhận xét những thể hiện của tính gian ác, tham lam, xảo quyệt của nhân vật ấy, không nên để học sinh bị thu hút về hình thức của nhân vật mà quên đi đó là nhân vật phản diện.
	Ví dụ 1 : Khi giảng dạy bài 26 “Phong trào kháng chiến chống Pháp trong những năm cuối thế kỷ XIX”, Mục I, phần 1 - Cuộc phản công quân Pháp của phái chủ chiến tại kinh thành Huế và sự bùng nổ phong trào Cần Vương. 
Vua Hàm Nghi (1870 - 1943)
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát ảnh của nhà vua Hàm Nghi và đặt câu hỏi để học sinh trả lời : Em biết gì về tiểu sử, tính cách, hoạt động của nhà vua Hàm Nghi ? Trong hoàn cảnh nước ta bị rơi vào tay Pháp và đại bộ phận phong kiến đã đầu hàng thì hoạt động của nhà vua thể hiện điều gì ? Em học được gì từ vị vua yêu nước trẻ tuổi này? Em hãy liên hệ về câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh về lòng yêu nước của nhân dân ta ?
Vua Hàm Nghi tên thật là Ưng Lịch, lên ngôi lúc 14 tuổi, được bá quan văn võ đồng tình, toàn dân công nhận. Nhìn trong ảnh, ta thấy vua Hàm Nghi trong trang phục rất giản dị, gọn gàng, đầu quấn khăn đen, mặc áo the như dân thường. Nhưng vẻ mặt lộ rõ sự kiên nghị, tính tình khẳng khái, thông minh và quả cảm. Quân Pháp phản công, quân triều Nguyễn thua chạy, rời bỏ kinh thành Huế. Tôn Thất Thuyết vào cung báo lại việc giao chiến trong đêm và mời vị hoàng đế trẻ Hàm Nghi cùng Tam cung lên đường. Nghe chuyện phải rời khỏi thành, vua Hàm Nghi đã thảng thốt nói : "Ta có đánh nhau với ai mô mà phải chạy". Qua đó cho thấy vua lúc bấy giờ còn hồn nhiên. Ông đã cùng Tôn Thất Thuyết ra căn cứ Tân Sở để tính chuyện kháng chiến lâu dài. Tại đây ngày 13/7/1885Vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương (Do Tôn Thất Thuyết soạn thảo), kêu gọi toàn dân giúp vua đánh Pháp. Trong suốt thời gian kháng chiến của vua Hàm Nghi, vua anh Đồng Khánh và 3 bà Thái hậu liên tục gửi thư kêu gọi vua trở về nhưng ông khẳng khái từ chối. Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là Paul Bert cũng đã định lập Hàm Nghi làm vua 4 tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh Bình nhưng cũng không thành. Nhà vua thường nói mình ưa chết trong rừng hơn là trở về làm vua mà ở trong vòng cương tỏa của người”. Đầu tháng 11/1888, Thực dân Pháp đã mua chuộc được Trương Quang Ngọc (Người hầu cận của vua Hàm Nghi), y đã dẫn đường cho Thực dân Pháp đột nhập căn cứ vua Hàm Nghi bị bắt khi đang ngủ, Tôn Thất Thiệp bị đâm chết. Khi đó, ông mới 17 tuổi, chống Pháp được ba năm. Nhà vua đã chỉ thẳng vào mặt Trương Quang Ngọc mà nói rằng : "Mi giết ta đi còn hơn là mi mang ta ra nộp cho Tây". Như vậy, qua việc hướng dẫn học sinh khai thác ảnh của nhà vua Hàm Nghi trong sách giáo khoa và thấy được tính cách của một vị vua trể tuổi nhưng rát gan dạ, anh hùng, đã phát huy được tính tích cực của học sinh, giáo dục cho các em lòng kính yêu và tự hào, biết ơn về vị vua trẻ tuổi yêu nước.
	Ví dụ 2 : Khi giảng dạy bài 30 - “Phong trào yêu nước chống Pháp từ đầu thế kỉ XX dến năm 1918”, Mục I, phần 1 - Phong trào Đông du (1905 - 1909). 
Phan Bội Châu (1967 - 1940)
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát ảnh Phan Bội Châu : 
- Em hãy nêu khái quát về tiểu sử Phan Bội Châu ? 
- Tại sao Phan Bội Châu lại chủ trương bạo động vũ trang để đánh Pháp giành độc lập ? 
- Động cơ nào khiến Phan Bội Châu sang Nhật Bản ? 
- Và đó là khởi đầu cho Phong trào Đông du ?
Phan Bội Châu sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867 tại làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Năm 17 tuổi, ông viết bài "Hịch Bình Tây Thu Bắc" đem dán ở cây đa đầu làng để hưởng ứng việc Bắc Kỳ khởi nghĩa kháng Pháp. Năm 19 tuổi (1885), ông cùng bạn là Trần Văn Lương lập đội “Sĩ tử Cần Vương” (hơn 60 người) chống Pháp, nhưng bị đối phương kéo tới khủng bố nên phải giải tán. Năm 1904, ông cùng Nguyễn Hàm và khoảng 20 đồng chí khác thành lập Duy Tân hội ở Quảng Nam để đánh đuổi Pháp. Năm 1905, ông cùng Đặng Tử Kính và Tăng Bạt Hổ sang Trung Quốc rồi sang Nhật Bản, để cầu viện Nhật giúp Duy Tân hội đánh đuổi Pháp. Tại Nhật, ông được khuyên là nên dùng thơ văn để thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam.và cổ động thanh niên ra nước ngoài học tập để sau này về giúp nước. Năm 1925, ông bị thực dân Pháp bắt cóc tại Thượng Hải giải về nước xử án tù chung thân.Trong 15 năm cuối đời, ông (lúc bấy giờ được gọi là Ông già Bến Ngự) vẫn giữ trọn phẩm cách cao khiết, không ngừng tuyên truyền ti

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_khai_thac_su_dung_kenh_hinh_trong_sach.docx