Sáng kiến kinh nghiệm: Phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh Khối 6 thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo - Nguyễn Thị Nhung

Sáng kiến kinh nghiệm: Phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh Khối 6 thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo - Nguyễn Thị Nhung

Quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, làm thay đổi tất cả các lĩnh vực, biến nhanh chóng về cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực ở nhiều quốc gia. Điều này đòi hỏi giáo dục và đào tạo phải có những thay đổi một cách căn bản và toàn diện, từ triết lí, mục tiêu đến nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy - học; nhằm phát triển cho người học hệ thống năng lực cần thiết để có thể tham gia hiệu quả vào thị trường lao động trong nước và quốc tế. Vì vậy phát triển chương trình giáo dục phổ thông dựa trên tiếp cận năng lực là một lựa chọn tất yếu khách quan và phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội.

Việt Nam đang tích cực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 - một cuộc cách mạng sẽ thay đổi triệt để cách chúng ta sống, làm việc và giao tiếp với nhau. Nó đặt ra yêu cầu lớn phải biến đổi vai trò của giáo viên – người truyền thụ kiến thức theo cách truyền thống, sang vai trò mới với tư cách người xúc tác và điều phối, hướng dẫn học sinh trở thành người tự học và tự đổi mới suốt đời. Để cho cá nhân tồn tại và phát triển nhanh trong kỉ nguyên toàn cầu hóa và số hóa, con người phải được trang bị các kĩ năng liên quan đến khoa học, công nghệ và khả năng làm việc với những máy móc thông minh. Giáo dục phải tập trung nhiều hơn vào phẩm chất làm cho chúng ta trở nên con người hơn so với máy móc như sự đồng cảm, cảm hứng, sự sáng tạo và sự nhạy cảm. Như vậy, sáng tạo là tâm điểm của mục tiêu phát triển các năng lực của công dân thế kỉ XXI, là trái tim của một nền giáo dục và nền văn hóa của một dân tộc. Để thực hiện điều này, trong quá trình dạy học GV cần chú ý phát triển năng lực sáng tạo cho HS. Một trong những biện pháp phát triển năng lực sáng tạo cho HS là tổ chức hoạt động trải nghiệm từng môn học, trong đó có Sinh học.

 

doc 28 trang haiyen789 21645
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm: Phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh Khối 6 thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo - Nguyễn Thị Nhung", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
 Kính gửi: Hội đồng thẩm định sáng kiến huyện Nho Quan.
Chúng tôi:
Là các đồng tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh khối 6 thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo”.
I. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN:
Quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, làm thay đổi tất cả các lĩnh vực, biến nhanh chóng về cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực ở nhiều quốc gia. Điều này đòi hỏi giáo dục và đào tạo phải có những thay đổi một cách căn bản và toàn diện, từ triết lí, mục tiêu đến nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy - học; nhằm phát triển cho người học hệ thống năng lực cần thiết để có thể tham gia hiệu quả vào thị trường lao động trong nước và quốc tế. Vì vậy phát triển chương trình giáo dục phổ thông dựa trên tiếp cận năng lực là một lựa chọn tất yếu khách quan và phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội.
Việt Nam đang tích cực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 - một cuộc cách mạng sẽ thay đổi triệt để cách chúng ta sống, làm việc và giao tiếp với nhau. Nó đặt ra yêu cầu lớn phải biến đổi vai trò của giáo viên – người truyền thụ kiến thức theo cách truyền thống, sang vai trò mới với tư cách người xúc tác và điều phối, hướng dẫn học sinh trở thành người tự học và tự đổi mới suốt đời. Để cho cá nhân tồn tại và phát triển nhanh trong kỉ nguyên toàn cầu hóa và số hóa, con người phải được trang bị các kĩ năng liên quan đến khoa học, công nghệ và khả năng làm việc với những máy móc thông minh. Giáo dục phải tập trung nhiều hơn vào phẩm chất làm cho chúng ta trở nên con người hơn so với máy móc như sự đồng cảm, cảm hứng, sự sáng tạo và sự nhạy cảm. Như vậy, sáng tạo là tâm điểm của mục tiêu phát triển các năng lực của công dân thế kỉ XXI, là trái tim của một nền giáo dục và nền văn hóa của một dân tộc. Để thực hiện điều này, trong quá trình dạy học GV cần chú ý phát triển năng lực sáng tạo cho HS. Một trong những biện pháp phát triển năng lực sáng tạo cho HS là tổ chức hoạt động trải nghiệm từng môn học, trong đó có Sinh học.
Theo dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo” góp phần quan trọng trong việc phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh. Bởi vì học sinh được trực tiếp thực hiện các hoạt động trong môi trường cuộc sống sẽ kích thích và phát triển sự sáng tạo. Bất cứ một sáng tạo nào cũng đều bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định, thức đẩy, đánh giá và kiểm chứng, định hướng và cuối cùng là hiện thực hóa mục đích của sáng tạo. Vì vậy, mọi nội dung hay phương thức giáo dục đều phải tồn tại trong thực tiễn.
Trong chương trình Sinh học 6, học sinh bắt đầu làm quen với thế giới sinh vật, trước hết là thực vật - hằng ngày các em vẫn được tiếp xúc nên có nhiều cơ hội để trải nghiệm từ đó phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh. Tuy nhiên, trên thực tế dạy học Sinh học hiện nay, giáo viên còn nhiều hạn chế trong việc quan tâm, định hướng, chú trọng phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh.
Xuất phát từ những lí do trên, Nhóm chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh khối 6 thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo”.
Thiết kế và tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học chủ đề: Gieo ươm rau mầm - Sinh học 6 THCS nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho người học.
Đặc biệt, việc phát triển năng lực sáng tạo cho HS là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng để HS phát huy năng khiếu, sở trường, thích ứng với xã hội mới, xã hội của những con người sáng tạo và đồng cảm; nhận thức được các hình mẫu và tạo ra ý nghĩa cuộc sống.
II. CHỦ ĐẦU TƯ SÁNG KIẾN:
Họ và tên nhóm tác giả:	
Giáo viên: Nguyễn Thị Nhung	
Số điện thoại: 	 0968.487.299
Email:	 nhung2203gmail.com
Vũ Thị Tố Duyên
Số điện thoại: 	 0979.574.065
 Email:	 Vutoduyen1990@gmail.com
Đinh Thị Vân
Số điện thoại: 	 0918.603.266
 Email:	 vanvandinh@gmail.com
Lê Thị Thanh Huyền
Số điện thoại: 	 0975.380.603
 Email:	 hynhi1804@gmail.com
 Đơn vị công tác:	Trường THCS Thanh Lạc - Nho Quan - Ninh Bình
 III. THỜI GIAN ÁP DỤNG:
Từ tháng 01 năm 2020, hoàn thành tháng 05 năm 2020.
IV. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN:
1. Nội dung sáng kiến:
a. Năng lực sáng tạo
* Khái niệm năng lực
Trong từ điển Tiếng Việt, khái niệm năng lực được xác định là: Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó; Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành một loạt hoạt động nào đó với chất lượng cao.
Theo các nhà khoa học: Xuyên suốt các môn học “Năng lực được thể hiện như một hệ thống khả năng, sự thao tác thành thạo hoặc những kĩ năng thiết yếu, có thể giúp con người đủ điều kiện vươn tới một mục đích cụ thể” hay “Năng lực của học sinh là sự kết hợp hợp lí kiến thức, kĩ năng và sự sẵn sàng tham gia để cá nhân hành động có trách nhiệm và biết phê phán tích cực hướng tới giải pháp cho các vấn đề”. 
Năng lực gồm: Năng lực chuyên môn, năng lực phương pháp, năng lực xã hội, năng lực cá thể.
* Khái niệm sáng tạo
Theo từ điển Tiếng Việt: Sáng tạo là tạo ra giá trị mới về vật chất hoặc tinh thần. Sáng tạo là tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, không bị gò bó, phụ thuộc vào cái đã có.
Theo các nhà khoa học: “Sáng tạo là một hành động nhờ nó một ý tưởng mới hay một sáng kiến mới được hình thành. Cái mới này xuất hiện đột ngột vì nó là sản phẩm của tưởng tượng và không phải logic”.Sáng tạo như là quá trình giải quyết vấn đề, vì mỗi tình huống giải quyết vấn đề đòi hỏi cá nhân phải tư duy sáng tạo. Đứng trước một vấn đề, con người huy động vốn kinh nghiệm của mình kết hợp chúng thành cấu trúc mới và với dạng mới này của kinh nghiệm thì vấn đề đặt ra được giải quyết .
 Các thuộc tính của sáng tạo:
- Tính độc đáo (originality): Khả năng phát hiện những nét độc đáo, những mối liên hệ mới hay những giải pháp mới, hiếm, lạ trên cơ sở những mối liên tưởng và những kết hợp mới với những kiến thức, kinh nghiệm đã có hay những giải pháp đã được xác định. Nhận ra vấn đề mới, bất cập, những cơ hội mới trong điều kiện quen thuộc, phát hiện ra những chức năng mới của sự vật, hiện tượng, là nền tảng của tính độc đáo của tư duy. 
- Tính thành thục (fluency): Khả năng sử dụng các thao tác tư duy, các kiến thức thông tin một cách dễ dàng. 
- Tính mềm dẻo (flexibility): Năng lực thay đổi dễ dàng, nhanh chóng trật tự của tri thức, thay đổi quan niệm, góc nhìn, định nghĩa lại sự vật hiện tượng, thay đổi phương pháp tư duy, phát hiện, tạo ra những mối liên hệ mới, đa dạng của sự vật, hiện tượng. 
- Tính chi tiết, hoàn thiện (elaboration): là sự thể hiện chi tiết, hoàn thiện các ý tưởng, tình huống và giải pháp. Chỉ báo để đánh giá mức độ chi tiết, hoàn thiện là số lượng các ý tưởng chi tiết, cụ thể được ghi nhận.
- Tính nhạy bén (sensibility): Số lượng vấn đề, tình huống, bất ổn được phát hiện hay nghi ngờ, những phát hiện trực giác.
Các thuộc tính của sáng tạo không tách rời nhau mà chúng có liên hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau, trong đó tính độc đáo được coi là quan trọng nhất để biểu đạt sáng tạo, tính nhạy cảm vấn đề đi liền với cơ chế xuất hiện sáng tạo. Tính mềm dẻo, sự thuần thục là cơ sở có thể đạt được tính độc đáo, tính nhạy cảm và tính chi tiết, hoàn thiện.
Thông thường, sáng tạo được chia thành các lĩnh vực: trí tuệ, nghệ thuật , thủ công, ứng dụng Các hoạt động sáng tạo trí tuệ được chia thành hoạt động tìm kiếm và hoạt động nghiên cứu. Các yếu tố của hoạt động sáng tạo xuất hiện trong các vấn đề khác nhau, ở các mức độ khác nhau. Hoạt động sáng tạo có đặc điểm như sau:
Có năng lực vận dụng những kiến thức đã biết để ứng dụng trong tình huống mới, không theo chuẩn đã có.
Có năng lực nhận biết được vấn đề trong các tình huống tương tự.
Có khả năng độc lập nhận ra chức năng mới của đối tượng.
Có năng lực tìm kiếm và phân tích các yếu tố của đối tượng trong các mối tương quan của nó.
Có khả năng độc lập tìm kiếm ra giải pháp thay thế.
Có khả năng kết hợp được các phương pháp đã biết để đưa ra hướng giải quyết mới cho một vấn đề.
* Những dấu hiệu sáng tạo được xác định dựa trên những hoạt động sau đây của học sinh:
Học sinh sử dụng thiết bị đã được học hoặc thực hiện chúng với các tương tác khác (cấu trúc lại, kết hợp với các thiết bị khác);
Sử dụng các vật liệu trực quan như một yếu tố bài tập, hoặc thực hiện chúng với các tương tác khác (phân tích, thay đổi trong tư duy), mà không làm thay đổi cách tiếp nhận.
Sự sáng tạo có thể giáo dục được, nhưng phải theo một cách khác với con đường truyền tải kiến thức và hình thành kỹ năng.
Có được kiến thức và kĩ năng, con người mới có thể sáng tạo. Tuy nhiên, dù có được lượng kiến thức và kỹ năng đã được quy chuẩn thì cũng không thể đảm bảo sự phát triển khả năng sáng tạo của con người được.
* Năng lực sáng tạo
Trong tâm lí học, năng lực sáng tạo được định nghĩa: “Là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động có kết quả”.
Theo các nhà khoa học: “Năng lực sáng tạo là khả năng tạo ra cái mới có giá trị của cá nhân dựa trên tổ hợp các phẩm chất độc đáo của cá nhân đó”. Năng lực sáng tạo được xem là khả năng một người sản sinh ra ý tưởng mới, nhìn nhận vấn đề theo cách mới, phát hiện cái mới trong cấu trúc cũ của sự vật hiện tượng để tạo ra các sản phẩm mới. Sản phẩm của sáng tạo là ý tưởng, vận dụng mới, cấu trúc mới”.
Đề án Đổi mới Chương trình, SGK giáo dục phổ thông sau năm 2015 của Bộ GD&ĐT trình Chính phủ (tháng 10/2014), đã mô tả NLST của HS THPT như sau: i) Đặt câu hỏi có giá trị để làm rõ các tình huống và những ý tưởng trừu tượng; xác định và làm rõ thông tin, ý tưởng mới và phức tạp từ các nguồn thông tin khác nhau; phân tích các nguồn thông tin độc lập để thấy được khuynh hướng và độ tin cậy của ý tưởng mới; ii) Xem xét sự vật với những góc nhìn khác nhau; hình thành và kết nối ý tưởng; nghiên cứu để thay đổi giải pháp trước sự thay đổi của bối cảnh; đánh giá rủi ro và có dự phòng; iii) Lập luận về quá trình suy nghĩ, nhận ra yếu tố sáng tạo trong các quan điểm trái chiều; phát hiện được các điểm hạn chế trong quan điểm của mình; áp dụng điều đã biết trong hoàn cảnh mới; iv) Say mê, nêu được nhiều ý tưởng mới trong học tập và cuộc sống; không sợ sai; suy nghĩ không theo lối mòn; tạo ra yếu tố mới dựa trên những ý tưởng khác nhau.
Theo các nhà nghiên cứu khoa học: Năng lực sáng tạo của HS THPT là năng lực tìm thấy cái mới, cách giải quyết mới, năng lực phát hiện và giải quyết có hiệu quả các vấn đề đặt ra trong học tập, năng lực phát hiện ra điều chưa biết, chưa có và tạo ra cái chưa biết, cái chưa có, không bị gò bó, phụ thuộc vào cái đã biết, đã có, suy nghĩ không theo lối mòn .
Khái niệm năng lực sáng tạo của HS THCS: là khả năng HS đưa ra các câu hỏi sáng tạo cho các vấn đề (tư duy theo chiều ngang, không theo lối mòn), đề xuất các ý tưởng, giải pháp giải quyết vấn đề sáng tạo (mới lạ, độc đáo); thực hiện quá trình giải quyết vấn đề sáng tạo (linh hoạt, nhạy bén, tiết kiệm thời gian, công sức), báo cáo kết quả sáng tạo (nội dung, hình thức, phong cách), đánh giá kết quả sáng tạo và đề xuất các ý tưởng mới.
* Cấu trúc năng lực sáng tạo
+ Biểu hiện chung của con người sáng tạo
Theo các nhà nghiên cứu khoa học, biểu hiện năng lực sáng tạo của con người là: Đề xuất giả thuyết mới, ngắn gọn hơn đối với một vấn đề quen thuộc; tự lập và thực hiện kế hoạch để đạt được kết quả với những bài tập và nhiệm vụ xác định; phát triển nhiều ý tưởng từ một vấn đề, đề xuất nhiều phương pháp khác nhau; vận dụng kiến thức, kĩ năng đã biết vào thực tế để đề xuất phương án giải quyết vấn đề trong thực tiễn; bổ sung, thiết kế lại mô hình thí nghiệm, đồ dùng dạy học ban đầu thành mô hình hợp lí hơn, tận dụng những cái đã có trong thực tế để thay thế tạo ra cái mới mà vẫn đảm bảo yêu cầu, đạt kết quả tốt; phát hiện, phân tích, đề ra giả thuyết và đánh giá đúng vấn đề; đề xuất và thực hiện cách làm mới không theo lối mòn, không theo quy tắc đã có.
Đặc điểm của người có năng lực sáng tạo:
- Chứa đựng tri thức và trình độ chuyên môn: Tri thức chuyên môn sâu có nghĩa là chủ thể đã thâu tóm được một cách sâu sắc tri thức một lĩnh vực hoạt động lao động cụ thể, trên cơ sở đó tìm tòi cái mới, đưa ra ý kiến mới, phương pháp mới vượt lên những gì đã đạt được.
- Khả năng tư duy nhạy bén, uyển chuyển và linh hoạt - tư duy đột phá: chủ thể có khả năng nhìn thấy sự khác lạ, không thuộc những gì đã biết trước đó, hoặc nhìn thấy cái mà người khác không nhìn thấy.
- Trí tưởng tượng phong phú: Trí tưởng tượng cho phép con người đưa ra quyết định hay tìm ra lối thoát trong các tình huống có vấn đề, ngay cả khi không có đủ thông tin.Trí tưởng tượng cho phép cá nhân đưa ra ý tưởng mới về nguyên tắc, ý tưởng chưa có hình mẫu trong thực tế dựa trên những yếu tố có thực.
- Khả năng phát hiện vấn đề, tạo dựng cái mới và độc đáo trong môi trường hoạt động của con người. 
+ Cấu trúc của năng lực sáng tạo
Theo các nhà nghiên cứu khoa học: Năng lực sáng tạo là một tổ hợp kiến thức, kĩ năng, thái độ sáng tạo. Dạy học phát triển năng lực sáng tạo nhằm cung cấp cho HS các loại kiến thức, tổ chức các hoạt động dạy học và giáo dục để HS cảm nhận, tích lũy kinh nghiệm và phát triển các kĩ năng sáng tạo cũng như hình thành động cơ, thái độ hứng thú sáng tạo cho các em.
Các kiến thức cần cung cấp cho HS bao gồm: kiến thức về môn học và liên môn học, kiến thức về cách thức sáng tạo. Cho HS luyện tập các kĩ năng quan sát, khám phá, tò mò, tưởng tượng và tư duy sáng tạo. Bên cạnh đó, hình thành ở các em ý thức, thái độ tích cực và hứng thú sáng tạo. Phát triển năng lực sáng tạo chú ý phát triển từng thành tố của năng lực sáng tạo và kết hợp chúng với nhau trong quá trình sáng tạo để tạo ra các ý tưởng mới và các sản phẩm mới. Người lớn cần cung cấp các công cụ/kĩ thuật, tạo môi trường khuyến khích các em sáng tạo.
Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo có cấu trúc như sau:
- Phát hiện và làm rõ vấn đề: Phát hiện được tình huống có vấn đề. Phân tích được tình huống cụ thể. Nêu được tình huống có vấn đề.
- Thiết lập không gian vấn đề: Thu thập thông tin. Phân tích thông tin. Tìm ra kiến thức liên quan đến vấn đề.
- Lập kế hoạch để giải quyết vấn đề: Đề xuất giả thuyết. Lập kế hoạch để giải quyết vấn đề. Thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề.
- Đánh giá và phản ánh giải pháp: Thực hiện và đánh giá giải pháp giải quyết vấn đề. Suy ngẫm về cách thức và tiến trình giải quyết vấn đề. Điều chỉnh và vận dụng trong tình huống mới.
- Nhận ra ý tưởng mới: Xác định và làm rõ thông tin, ý tưởng mới và phức tạp từ các nguồn thông tin khác nhau. Phân tích các nguồn thông tin độc lập để thấy được khuynh hướng và độ tin cậy của ý tưởng mới.
- Hình thành và triển khai ý tưởng mới: Nêu được ý tưởng mới trong học tập và trong cuộc sống, suy nghĩ không theo lối mòn. Tạo ra các yếu tố mới dựa trên những ý tưởng khác nhau, hình thành và kết nối ý tưởng. Nghiên cứu để thay đổi giải pháp trước sự thay đổi của bối cảnh. Đánh giá rủi ro và có dự phòng.
- Tư duy độc lập: Đặt được nhiều câu hỏi có giá trị, không dễ dàng chấp nhận thông tin một chiều, không thành kiến khi xem xét, đánh giá vấn đề. Quan tâm tới các lập luận và minh chứng thuyết phục, sẵn sàng xem xét đánh giá lại vấn đề.
Cấu trúc của năng lực sáng tạo của HS gồm 6 yếu tố sau: (1) Đặt câu hỏi sáng tạo; (2) Đề xuất giải pháp giải quyết vấn đề sáng tạo; (3) Giải quyết vấn đề sáng tạo; (4) Báo cáo kết quả sáng tạo; (5) Đánh giá kết quả sáng tạo; (6) Đề xuất ý tưởng mới.
Đặt câu hỏi sáng tạo
 Vai trò của câu hỏi trong việc phát triển năng lực sáng tạo:
 Theo các nhà nghiên cứu khoa học: “Cuộc sống không phải là đi tìm câu trả lời mà là đặt ra các câu hỏi”,“các câu hỏi tạo ra tư duy đổi mới và sáng tạo, các câu hỏi làm bật ra ý tưởng thú vị”. Trí tò mò là công cụ tạo nên sự sáng tạo, là kĩ thuật để có được sự đổi mới. Trí tò mò có thể dẫn lối đến tận khi bạn tìm ra một ý tưởng mới, có thể truyền cảm hứng cho một tầm nhìn độc đáo. 
Đề xuất giải pháp giải quyết vấn đề sáng tạo
Để có được các giải pháp giải quyết vấn đề sáng tạo, HS cần có khả năng nhìn nhận đối tượng, vấn đề dưới các góc độ khác nhau, từ đó HS tìm được nhiều giải pháp cho một vấn đề.
Đôi khi giải pháp cho vấn đề nằm ngay trong vấn đề đó. Đứng trước một vấn đề cần giải quyết, từ những thông tin thu được, chúng ta có thể phân tách, sắp xếp lại thông tin, thúc đẩy bản thân suy nghĩ tìm ra những cách thức mới để làm mọi việc..
Giải quyết vấn đề sáng tạo
Biểu hiện của HS giải quyết vấn đề sáng tạo: Có khả năng phối hợp nhiều vốn kinh nghiệm đã có, các thao tác tư duy kết hợp với các công cụ, phương pháp khác nhau để giải quyết vấn đề. Biết điều chỉnh kịp thời, linh hoạt các giải pháp khi gặp trở ngại. Có khả năng vận dụng những kiến thức đã có vào hoàn cảnh mới, khi điều kiện thay đổi. Có khả năng giải quyết vấn đề bằng phương pháp mới, độc đáo, không bị ảnh hưởng bởi những kinh nghiệm trước đó.
Báo cáo kết quả sáng tạo
- Nội dung trình bày phù hợp với chủ đề, thông tin phong phú đa dạng, dễ hiểu, hấp dẫn
- Hình thức trình bày rõ ràng, ngắn gọn, logic, khoa học, độc đáo, mới lạ. Lời nói truyền cảm, hấp dẫn. Sử dụng ngôn ngữ cơ thể và tương tác một cách hiệu quả, phù hợp.
Đánh giá kết quả sáng tạo
Biểu hiện của HS: Đề xuất được các tiêu chí đánh giá kết quả sáng tạo, nhận xét được ưu điểm và hạn chế của một ý tưởng/sản phẩm/phương pháp/hành động cụ thể.
- Tính mới: Vật liệu mới/quy trình mới/khái niệm mới/ý tưởng mới.
- Kiểu cách: Tính nghệ thật/trang nhã/tinh tế.
- Khả năng ứng dụng, tính hữu ích.
(6) Đề xuất ý tưởng mới
Biểu hiện của HS: Có khả năng tìm ra những liên tưởng, những mối liên hệ mới; từ đó hình thành một ý tưởng hoàn toàn mới, độc đáo với vấn đề đặt ra.
b. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo
* Khái niệm hoạt động
Theo từ điển Tiếng Việt: Hoạt động là tiến hành những việc làm có quan hệ với nhau chặt chẽ nhằm một mục đích nhất định trong đời sống xã hội; Hoạt động là vận động, cử động nhằm một mục đích nhất định nào đó.
* Khái niệm trải nghiệm
Theo từ điển Tiếng Việt: trải nghiệm là trải qua, kinh qua.
Theo các nhà khoa học giáo dục, trải nghiệm chính là những tồn tại khách quan tác động vào giác quan con người, tạo ra cảm giác, tri giác, biểu tượng, con người cảm thấy có tác động đó và cảm nhận nó một cách rõ nét, để lại ấn tượng sâu đậm, rút ra bài học, vận dụng vào thực tiễn đời sống, hình thành nên các thái độ giá trị.
Kết quả nghiên cứu của Tâm lí học giáo dục đã chỉ ra: 
Khi chúng ta đã....
Đọc
Nghe
Nhìn
Nghe và nhìn
Đối thoại
Trải nghiệm
Chúng ta nhớ được...
10%
20%
30%
40%
50%
60%
 * Khái niệm hoạt động trải nghiệm sáng tạo
+ Mô hình học tập qua trải nghiệm
Theo các nhà nghiên cứu khoa học: Học là một quá trình trong đó kiến thức của người học được tạo ra qua việc chuyển hóa kinh nghiệm; bản chất của hoạt động học là quá trình trải nghiệm. Tiến trình học được diễn tiến qua bốn pha học tập sau:
Trải nghiệm cụ thể (Concrete Experience): Hướng người học sẵn sàng cho trải nghiệm mới thông qua việc thực hiện những hoạt động/tình huống cụ thể và thực tế. 
Suy tư từ trải nghiệm trước đó (Reflective Observation): Người học xem xét, nghiên cứu từ trải nghiệm trước đó qua nhiều cách tiếp cận để có được các thông tin dữ liệu cũng như cảm xúc, cảm giác; và kế tiếp là tìm nguyên nhân, bản chất vấn đề xuất phát từ đâu, mối quan hệ là gì? Có thể nhận thấy rằng tiến trình suy tư này theo cấp độ từ thấp (ghi nhận thông tin) đến cao (nguyên nhân, mối quan hệ); và được cụ thể hóa qua việc trả các câu hỏi sau: Đã làm những gì? Những gì đã xảy ra? Cảm nhận thế nào? Khó khăn/dễ dàng nhất là gì? Tại sao như vậy? Nguyên nhân là gì? Làm khác cho lần sau như thế nào?
Hình thành khái niệm trừu tượng (Abstract Conceptualization): Người học cần có khả năng phân tích, tích hợp và khái quát hóa những dữ kiện, ý tưởng mới có được ở hai pha trải nghiệm và suy tư trước đó thành các lý thuyết/mô hình. Ở pha này là mức cao nhất của tiến trình suy tư khi dẫn đến được các khái niệm; và gọi là tiến trình này thuộc kỹ năng tư duy cấp.
Thử nghiệm tích cực (Active Experimentation): Ở pha này cùng với pha học tập trước, người học cố gắng đưa ra được quy trình thực hiện sẽ diễn ra như thế nào? công cụ thực hiện, tiêu chí đánh giá? để chuẩn bị cho chu trình trải nghiệm mới tiếp theo hoặc tiếp tục với vấn đề cũ trước đó hoặc ứng dụng vào tình huống vấn đề mới. 
+ Hoạt động trải nghiệm sáng tạo
Trong dự thảo đề án đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông sau năm 2015: “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo bản chất là những hoạt động giáo dục nhằm hình thành và phát triển cho HS những phẩm chất tư tưởng, ý chí, tình cảm, giá trị và kĩ năng sống và những năng lực cần có cho con người trong xã hội hiện đại. Nội dung hoạt động trải nghiệm sáng tạo được thiết kế theo hướng tích hợp nhiều lĩnh vực để HS có nhiều cơ hội tự trải nghiệm và phát huy khả năng sáng tạo của các em”. Xây dựng và sử dụng mô hình hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học Sinh học ở trường phổ thông trong đó HS được trải nghiệm đề xuất ý tưởng, thiết kế, tổ chức, đánh giá kết quả thực hiện, qua đó vừa lĩnh hội được nội dung học tập, vừa hình thành các kĩ năng sống, kĩ năng tư duy, vận dụng kiến thức, kinh nghiệm để giải quyết một cách linh hoạt, chủ động, sáng tạo những vấn đề nhận thức và thực tiễn.
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, từng cá nhân học sinh được trực tiếp tham gia vào các hoạt động thực tiễn trong môi trường nhà trường cũng như môi trường gia đình và xã hội dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, với tư cách là chủ thể hoạt động, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức, phẩm chất nhân cách, các năng lực , từ đó tích luỹ kinh nghiệm riêng cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình. 
Các loại trải nghiệm 
Người ta phân biệt các trải nghiệm khác nhau như trải nghiệm vật chất, trí truệ, tình cảm, tinh thần, gián tiếp và mô phỏng.
* Trải nghiệm vật chất (Physical Experiences)
Trải nghiệm vật chất xảy ra bất cứ khi nào đối tượng hay môi trường thay đổi. Nói cách khác, trải nghiệm vật chất liên quan đến những trải nghiệm có thể quan sát được. Nó là hình thức bên ngoài của hoạt động để chiếm lĩnh đối tượng. Triết lí “trăm nghe không bằng một thấy” hay “Đi một đàng học một sàng khôn” theo chúng tôi là đề cao trải nghiệm của con người và có thể xếp vào loại Trải nghiệm vật chất..
* Trải nghiệm tinh thần (Mental Experiences)
Trải nghiệm tinh thần liên quan đến các khía cạnh trí tuệ và ý thức, là sự kết hợp giữa tư duy, nhận thức, trí nhớ, cảm xúc, ý chí và tưởng tượng. 
Trải nghiệm tinh thần bao gồm cả các quá trình nhận thức vô thức. Trải nghiệm này thường được sử dụng trong việc học tập các môn học (đặc biệt là các môn khoa học) hoặc việc học được một khái niệm nào đó không có chủ định (Ví dụ như làm nhiều một dạng bài toán nào đó rồi tự dưng phát hiện ra nguyên lí chung của việc giải những bài toán này). 
Có thể nói, trải nghiệm tinh thần là hình thức bên trong của hoạt động để chiếm lĩnh đối tượng.
* Trải nghiệm xúc cảm (Emotional Experiences)
Trải nghiệm tình cảm được diễn ra khi yêu hay kết bạn. Yêu là trải nghiệm tình cảm. Khái niệm trải nghiệm tình cảm cũng xuất hiện trong khái niệm đồng cảm.
Theo chúng tôi, học các môn học thuộc các lĩnh vực giáo dục nghệ thuật, giáo dục đạo đức, lối sống, trẻ cần được trải nghiệm tình cảm thì hiệu quả mới tốt.
* Trải nghiệm tâm thần (Spiritual Experiences)
Trải nghiệm tâm thần diễn ra khi có sự cố như sốt cao, viêm màng não, thiếu ngủ, thiếu ô xy, rối loạn tâm thần, tai nạn chấn thương Con người cũng có thể có được trải nghiệm như vậy bằng cách thôi miên, thiền, thần chú, yoga hoặc một số trải nghiệm tâm thần có được bằng cách uống thuốc, uống rượu, chích thuốc phiện 
* Trải nghiệm xã hội (Social Experiences)
Lớn lên, sinh sống trong xã hội, con người hình thành trải nghiệm xã hội. Trải nghiệm xã hội cho con người kĩ năng và thói quen cần thiết để sống trong xã hội của mình, chia sẻ kinh nghiệm, hình thành các chuẩn mực, phong tục, truyền thống, giá trị, vai trò xã hội, biểu tượng và ngôn ngữ.
Trong học tập, việc cho trẻ tham gia vào các hoạt động tập thể, hoạt động thực tế tại nhà máy, trang trại, câu lạc bộ, hoạt động trao đổi, thảo luận giúp trẻ có trải nghiệm xã hội, hình thành nhân cách. Hoạt động này mang tính chất thuần tuý người, đặc trưng cho phạm trù người. Lúc này, hoạt động của cá nhân không còn là của riêng một cá nhân, mà là của một cộng đồng người, trong một thời điểm xác định.
* Trải nghiệm mô phỏng (Virtual and Simulation Experiences)
Sử dụng máy tính cũng có thể giúp con người có trải nghiệm. Đóng vai cũng giúp ta trải nghiệm. Sử dụng trò chơi video cũng giúp trải nghiệm, trải nghiệm có tính chất mô phỏng cuộc sống thực.
Loại trải nghiệm này thể hiện phương thức trải nghiệm, còn nội dung trải nghiệm là các tình huống giả định với cuộc sống thực nhằm giúp trẻ giải quyết các vấn đề đặt ra.
* Trải nghiệm chủ quan (Subjective Experiences)
Trải nghiệm chủ quan liên quan đến trạng thái, cảm nhận chủ quan của người nào đó về hiện thực, một hiện thực mà dựa trên sự tương tác của cá nhân người đó với môi trường. Trải nghiệm chủ quan dựa vào năng lực của cá nhân để xử lí tình huống trên cơ sở kinh nghiệm cá nhân từng học sinh.
c. Các dạng hoạt động trải nghiệm trong dạy học Sinh học
Sinh học là môn khoa học thực nghiệm, kiến thức Sinh học có được ngày nay phần lớn hình thành bằng phương pháp thực nghiệm. Kiến thức Sinh học có tính khái quát cao, đồng thời gắn liền với thực tiễn đời sống, chính vì thế các dạng hoạt động trải nghiệm trong dạy học Sinh học bao gồm: (1) Thực hành quan sát, thí nghiệm; (2) Dự án; (3) Đóng vai, diễn kịch; (4) Tham quan, dã ngoại; (5) Câu lạc bộ khoa học.
Thực hành quan sát, thí nghiệm
Nội dung Sinh học 6 chủ yếu là các kiến thức hình thái, phân loại thực vật, do đó phương pháp thực hành quan sát, thí nghiệm thường xuyên được sử dụng. Thực hành quan sát, thí nghiệm theo con đường tìm tòi - nghiên cứu sẽ giúp HS phát triển tư duy sáng tạo. Những nhà khoa học vĩ đại thường là những người có óc quan sát vô cùng tinh tế. Khi gặp điều gì đó thú vị, họ quan sát nó, sau đó phác họa trong đầu; rồi lại quan sát nó lần 2; kết hợp những kí ức của họ với những điều đang trông thấy trước mắt (liên tưởng). Từ đó, có thể rất nhiều phát minh vĩ đại đã được tìm ra. 
Phương pháp thực hành quan sát thường được tổ chức theo 4 bước:
Bước 1: GV giao nhiệm vụ nhận thức cho từng cá nhân hay nhóm. Ví dụ: Phân biệt các loại thân, các loại rễ, các loại lá; nhận dạng một số loại thực vật 
Bước 2: HS thực hành quan sát mẫu vật. Phát triển một số kĩ năng: cố định mẫu vật; cân đo; sử dụng kính lúp; 
Bước 3: HS báo cáo kết quả và thảo luận.
Bước 4: Đánh giá kết quả.
Dự án
Dạy học dự án là một mô hình dạy và học trong đó việc học tập cua HS được thực hiện một cách có hệ thống qua một loạt các thao tác từ thiết kế giờ học đến lập kế hoạch, giải quyết vấn đề, ra quyết định, tạo sản phẩm, đánh giá và trình bày kết quả để từ đó giúp HS phát triển kiến thức và kĩ năng.
Đóng vai, diễn kịch
Đóng vai, diễn kịch là một phương pháp dạy học trong đó người học thực hiện vai diễn trong một tình huống hay một vở kịch nào đó gắn liền với nội dung dạy học trong một bối cảnh thực tiễn. Thông qua việc đóng vai, người học đặt mình vào nhân vật, ứng xử như nhân vật và qua đó vừa hình thành kiến thức, phát triển các kĩ năng đồng thời hình thành thái độ với một vấn đề nào đó.
Đóng vai, diễn dịch trong dạy học đòi hỏi sự chuẩn bị công phu của cả GV và HS. Trong khi diễn kịch, HS bộc lộ khả năng sáng tạo của mình để làm rõ tính cách nhân vật mà các em đóng vai và làm nổi rõ ý nghĩa của vở diễn. Các em có thể viết lại vở diễn, sáng tạo thêm tính cách của nhân vật, sáng tạo cách thể hiện tính cách của nhân vật. Trong khi diễn kịch, HS làm việc hợp tác với nhau và phát triển các năng khiếu nghệ thuật và các cảm xúc nghệ thuật.
Tham quan, dã ngoại
Tham quan, dã ngoại là một hình thức tổ chức học tập thực tiễn hấp dẫn đối với HS. Mục đích của tham quan, dã ngoại là để các em HS đi thăm, tìm hiểu, học hỏi kiến thức, tiếp xúc với các thắng cảnh, các di tích lịch sử, văn hóa, công trình, nhà máy hoặc địa danh nổi tiếng của đất nước giúp các em có được những kinh nghiệm từ thực tế, từ các mô hình, cách làm hay và hiệu quả trong một lĩnh vực nào đó, từ đó có thể áp dụng vào cuộc sống của các em.
Các chuyến tham quan, dã ngoại sẽ tăng cường cơ hội cho HS được giao lưu, chia sẻ và thể hiện khả năng vốn có của mình, đồng thời giúp các em cảm nhận được vẻ đẹp của quê hương, đất nước, hiểu được các giá trị truyền thống và hiện đại.
Câu lạc bộ khoa học
 Đặc điểm:
Câu lạc bộ là hình thức sinh hoạt ngoại khóa của những nhóm HS cùng sở thích, nhu cầu, năng khiếu, dưới sự định hướng của những nhà giá dục, nhằm tạo môi trường giao lưu thân thiện, tích cực giữa các HS với nhau và giữa HS với thầy cô giáo, với những người lớn khác. Hoạt động câu lạc bộ tạo cơ hội để HS được chia sẻ những kiến thức, hiểu biết của mình về các lĩnh vực mà các em quan tâm, qua đó phát triển các kĩ năng của HS như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng lắng nghe và biểu đạt ý kiến; kĩ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng; kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm; kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề, 
d. Mối quan hệ giữa hoạt động trải nghiệm và năng lực sáng tạo
Hoạt động trải nghiệm là nền của sáng tạo, là môi trường để phát triển tiềm năng sáng tạo trên nhiều lĩnh vực khác nhau của HS. Trong quá trình tham gia vào hoạt động, HS luôn phải suy nghĩ, tìm tòi, khám phá để giải quyết các vấn đề được đặt ra, đồng thời các em phải tạo ra được các sản phẩm của hoạt động bao gồm các sản phẩm vật chất và tinh thần. Khi tham gia hoạt động trải nghiệm, HS luôn hoạt động và sáng tạo không ngừng. Sự sáng tạo của HS trong quá trình hoạt động trải nghiệm khác với sự sáng tạo của các nhà khoa học. Sự sáng tạo của các em là quá trình tạo ra cái mới đối với bản thân, mới với nhận thức và cách làm của bạn bè, và không hẳn phải là những cái mới cao siêu đối với nhân loại.
Mối liên hệ giữa “trải nghiệm” và “sáng tạo”: “Trải nghiệm” và “sáng tạo” là hai quá trình tâm lí có tính tươn

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_phat_trien_nang_luc_sang_tao_cho_hoc_s.doc